Nhìn
vào những tấm lịch, ắt hẳn mọi người đều thấy năm 2002 được gọi là năm
Nhâm ngọ, cầm tinh con ngựa. Vì thế, theo thói quen tốt lành vốn có từ
lâu trong làng báo, gã cũng phải chịu khó “ngâm kíu” chút ít về con vật
thân thương vừa mới được lên ngôi này, để ba hoa chích chòe, khoác lác
với bà con lối xóm.
Thú
thật với bàn dân thiên hạ : hồi còn bé gã cũng đã được học qua quít,
nhưng nhũng kiến thức ấy đã bị bụi bậm thời gian phủ kín, nên bây giờ
chẳng còn nhớ được tí ti nào. Thế là đành phải vác tự điển ra để mà ngó
ngang ngó dọc.
Theo
“Việt Nam Tự điển” của Lê Văn Đức thì ngựa là loài thú to, móng cao và
cứng, đầu dài, bờm dài, đuôi dài và chạy rất nhanh. Còn theo tự điển
“Petit Larousse”, mấy ông tây đã định nghĩa như sau : ngựa là loài có
vú, có móng, có chân dài và rất khoái chạy.
Lông
của nó có đủ màu đủ sắc. Trắng thì gọi là ngựa bạch, đen thì gọi là
ngựa ô. Còn có cả những màu sắc gã chưa hề thấy bao giờ, chẳng hạn xanh
thì gọi là ngựa bích, tím thì gọi là ngựa tía...
Vì
rất khoái chạy, nên ngựa thường được người ta nuôi để cưỡi. Lính tráng
thì cưỡi ngựa xông ra chiến trận để bảo vệ quê hương đất nước, chẳng thế
mà đã có hẳn một binh chủng mang tên là “kỵ mã”, tức là lính cưỡi ngựa.
Còn những bậc ”thi sỡi” thì lại thích cưỡi ngựa xem hoa, đủng đỉnh cho
đúng với cốt cách phong nhã của con nhà tao nhân mặc khách.
Vì
rất khoái chạy, nên ngựa còn được người ta nuôi để kéo xe. Trong những
gia đình quyền quí ngày xưa, người ta có những chiếc xe song mã, tam mã,
tứ mã... Riêng giới bình dân thì có xe độc mã, nghĩa là chỉ có một con
ngựa duy nhất để kéo.
Hồi
còn bé, gã đã được nhìn thấy những chiếc xe ngựa ở vùng Hóc môn và ngay
cả trong thành phố Saigon nữa. Xe ngựa thời đó cũng rất thanh lịch và
đẹp mắt, thường được dùng để chở khách đi chợ.
Có
những bác tài tốt bụng và yêu trẻ, đã cho bọn nhóc tì quá giang khi đến
trường cũng như lúc tan trường. Và gã rất thích cái thú nhảy xe ngựa,
mặc cho bác tài phùng má trợn mắt mà la hét, tay cầm chiếc roi dư dứ
trước mặt.
Bây
giờ thì xe ngựa đã được thay thế bằng xe gắn máy, xe ô tô. Một thoáng
bâng khuâng tiếc nhớ như bà huyện Thanh Quan trong “Thăng long thành
hoài cổ” :
- Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Đền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Cũng
vì rất khoái chạy, nên người ta thường dùng ngựa để tổ chức những cuộc
đua, xem con ngựa nào chạy nhanh nhất và về đích sớm nhất.
Hồi
còn bé, lúc học trong nội trú, cứ vào chiều thứ năm là bọn gã được đi
“bát phố”. Có hai điểm được chiếu cố nhiều hơn cả, đó là vườn “Bờ rô” và
trường đua Phú Thọ, bởi vì hai điểm này không quá xa, đủ sức để mà đi
bộ.
Vườn
“Bờ rô” có sân Tao Đàn, nơi tập dượt của đội Quan thuế. Vào đó để được
nhìn thấy thủ môn Rạng, nổi tiếng nhất miền Nam thời bấy giờ với những
đường “bay bắt bóng”. Ngoài ra, vườn “Bờ rô” còn có một câu lạc bộ, hay
nói một cách vắn tắt, còn có một hội những người đua ngựa do một ông tây
nào đó làm xếp. Đứng ở ngoài vòng đai, thiên hạ tha hồ chiêm ngắm những
con ngựa đua vừa cao to, lại vừa khỏe mạnh. Đen cũng có mà nâu cũng có.
Khác hẳn những con ngựa gầy trơ xương sống kéo xe bở hơi tai của dân
ta.
Còn
trường đua Phú Thọ tọa lạc trên một khu đất rộng, với những hàng cây
xanh mát và nhất là với một khán đài rất bề thế được xây theo kiểu tây.
Hàng tuần cứ vào chiều thứ bảy và Chúa nhật, người ta lại tổ chức những
cuộc đua.
Thế
nhưng, đua không quan trọng bằng cá. Người chơi cá ngựa sẽ mua vé theo
số thứ tự con ngựa mình thích. Những con ngựa này còn được gọi bằng
những tên rất đẹp và rất kêu, chẳng khác gì tên của những nữ ca sĩ. Nếu
con ngựa mình thích mà về nhất thì được chia tiền lời.
Đây
quả là một cuộc đỏ đen, hên xui may rủi. Thành thử đa số những người
chơi cá ngựa đều bị ngựa đá. Khi đá, ngựa dùng hai chân sau búng vào
người. Còn khi cá cược, người chơi lắm lúc bị ngựa đá văng cả một đống
tiền, cả một căn nhà hay cả một sản nghiệp mình đã chắt chiu gầy dựng
qua bao năm tháng.
Nhất
là khi ngựa về ngược. Con ngựa dở, bỗng ngẫu hứng qua mặt những con
ngựa giỏi khác cái rụp, chẳng kịp bóp còi mà về nhất. Trong trường hợp
ngựa về ngược như thế, người chơi chỉ còn cách cười ra nước mắt mà thôi.
Dù bị ngựa đá đau điếng, người chơi vẫn cứ ham và vẫn cứ sẵn sàng nướng
cho đến đồng xu cuối cùng.
Dĩ
nhiên ở đây gã không có thời giờ bàn đến cảnh ngựa về ngược trong những
mùa tranh cử, bởi vì có những ứng cử viên vào chức tổng thống, nghị sĩ,
dân biểu... vừa vô tài lại vừa thiếu đức, nhưng chẳng may ngáp phải
ruồi, do mánh mung vung tiền hay do phe nhóm phò trợ, trúng ngay cái ghế
mình nhắm. Khiến cho bàn dân thiên hạ phải lao đao khốn khổ.
Sau
ngày ba mươi tháng tư, trò đua ngựa cũng như xổ số và nhiều món ăn
chơi lỉnh kỉnh khác đã bị nhà nước cấm tiệt vì cho đó là một loại cờ bạc
trá hình. Nhưng rồi sau đó, những thứ gì đã cấm thì nay lại được liên
tục phát triển. Trường đua được mở cửa lại, xổ số được tổ chức không
phải chỉ ở trung ương mà còn ở mỗi tỉnh, nhảy đầm được bung ra như nấm, ì
xèo khắp cả thành phố, đúng như một nhà bình luận đã nói :
- Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một con đường vòng, đi từ tư bản chủ nghĩa đến tư bản chủ nghĩa.
Giữa
tiếng ta và tiếng tàu có nhiều mối liên hệ mật thiết với nhau. Vì thế,
khi đã nói đến chữ ngựa, thì cũng phải tra xem trong tiếng tàu có những
chữ nào bàn về loài động vật này.
Trước hết là chữ ngọ.
Ngọ
là chữ thứ bảy trong mười hai chi : tí sửu dần mão... Nói theo kiểu
“nho chùm” trong “Hán Việt tân từ điển” của Nguyễn Quốc Hùng thì ngọ là
vị thứ bảy trong thập nhị chi. Và trong thập nhị chi, thì ngọ ám chỉ con
ngựa. Vì thế cứ mười hai năm một lần, con ngựa lại lên ngôi và bất kỳ
năm nào mang nhãn hiệu trình tòa là “ngọ” thì cũng đều cầm tinh con ngựa
cả.
Tiếp đến là chữ câu.
Câu là con ngựa trẻ đang sung sức. Bên tàu thì nói :
- Bạch câu quá khích, có nghĩa là con ngựa trắng vụt ngang khe cửa.
Còn bên ta thì bảo :
- Bóng câu qua cửa sổ.
Cả hai đều diễn tả ý tưởng thời gian qua mau.
Sau cùng là chữ mã.
Mã là con ngựa. Ngày xưa, người ta sính văn chương thơ phú. Vì thế mới xảy ra :
Có
hai cậu học trò, một người thì giỏi còn một người thì dốt. Cậu học trò
giỏi vào ra mắt viên tướng. Viên tướng bảo cậu hãy làm một bài thơ với
tựa đề : bạch mã.
Chẳng cần suy nghĩ, cậu học trò giỏi bèn đọc một lèo :
- Bạch mã mao như tuyết,
Tứ thúc cương như thiết.
Tướng quân kỵ bạch mã,
Bạch mã tẩu như phi.
Có nghĩa là : Ngựa trắng lông như tuyết, bốn chân cứng như sắt, tướng quân cưỡi ngựa trắng, ngựa trắng chạy như bay.
Nghe xong bài thơ trên viên tướng lấy làm đắc ý, vỗ đùi đánh đét một cái, rồi thưởng cho cậu học trò giỏi một số tiền lớn.
Thấy
vậy, cậu học trò dốt cũng mon men vào ra mắt viên tướng. Viên tướng
nhìn ra sân, thấy bà cụ già đi ngang qua, bèn ra đề tài bài thơ là bà
lão.
Cậu học trò dốt nghĩ mãi chẳng được một câu nào, cuối cùng bèn “thuổng” bài thơ trên mà rằng :
- Bà lão mao như tuyết,
Tứ thúc cương như thiết.
Tướng quân kỵ bà lão,
Bà lão tẩu như phi.
Có nghĩa là : bà lão lông trắng như tuyết, bốn chân cứng như sắt, tướng quân cưỡi bà lão, bà lão chạy như bay.
Quả là hết ý, thiếu điều viên tướng nọc cậu ra, phét cho mấy trượng vào mông cho chừa thói “đạo văn” của người khác.
Ngày xưa người ta cũng thường dùng da ngựa để bọc tử thi, vì thế mới có câu :
- Mã cách lõa thi, ám chỉ cái chết của người nam nhi có chí khí đi đánh giặc, nếu chết thì lấy da ngựa bọc thây đem chôn là đủ :
- Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao.
Ngày
nay người ta dùng hai chữ “mã lực”, có nghĩa là sức ngựa, để chỉ công
suất của một chiếc máy có thể nâng một vật nặng bảy mươi lăm ký lô lên
cao một mét trong một giây đồng hồ.
Nói
tới chữ mã, gã không bao giờ quên được kỷ niệm của những ngày còn bé.
Hồi đó các thày cô thoải mái đánh mắng học trò mà không bị phiền phức
như bây giờ. Thày dạy tiếng Pháp của gã, tuy không đánh nhưng thường
xuyên phạt quì những đứa không thuộc bài.
Chẳng hạn vào đầu giờ lớp thày bảo :
- Lấy vở ra, viết lại mười tiếng ngữ vựng.
Những đứa chỉ viết được năm tiếng trở xuống, liền bị thày phán :
- Hạ mã.
Hai chữ hạ mã có nghĩa là xuống ngựa, nhưng trong hoàn cảnh này, nó mang một nét đặc thù, đó là...quì xuống.
Còn
những đứa viết được sáu chữ trở lên, thày không bảo “thượng mã”, nhưng
chỉ cần nhìn thấy nụ cười của thày là đã cảm thấy ấm lòng.
Hai
chữ thượng mã có nghĩa là lên ngồi trên lưng ngựa. Đơn giản chỉ có thế,
xin đừng hiểu dài và hiểu rộng quá chương trình thành chứng “thượng mã
phong”, chết lăn quay trên lưng... kẻo làm cho kẻ thanh sạch mất lòng
khiết tịnh chăng ?
Đối
với người Việt Nam, ngựa tuy không gần gũi như gà vịt, chó mèo và lợn,
không gắn bó như trâu bò, nhưng lại góp phần rất lớn trong việc lập nước
và giữ nước. Gã xin kể hầu một vài câu chuyện để chứng minh cho sự thật
trên.
Câu chuyện thứ nhất về ngựa sắt.
Đời
vua Hùng Vương thứ sáu, nước Ân ở phía bắc mưu toan xâm lăng để cướp
lấy nước Văn Lang. Vua Hùng Vương rất lấy làm lo lắng, bèn họp quần thần
để hoạch định kế giữ nước. Trong hàng quan văn có người cho biết ngày
trước tiên đế Lạc Long Quân có truyền lại rằng :
- Khi nào nước nhà gặp cơn nguy biến, thì nên cầu thần lên giúp.
Hùng
Vương liền truyền lệnh triệu thần nhân. Ba hôm sau, có một cụ già râu
tóc bạc phơ hiện lên giữa lúc mưa bão, tự xưng là Lạc Long Quân. Cụ bảo
rằng :
-
Trong ba năm nữa, giặc Ân từ phương Bắc sẽ tràn xuống. Bấy giờ nhà vua
hãy cho người đi khắp nước cầu tướng tài ra giúp, chừng ấy sẽ có thần
tướng hiện ra cứu an xã tắc.
Ba
năm sau, quả nhiên giặc hùng mạnh như vũ bão tràn sang cướp nước Nam.
Chúng đi đến đâu là nhà tan cửa nát, còn người thì bị giết, gây nên bao
cảnh hãi hùng. Tin cấp báo về đến Phong Châu, Hùng Vương nhớ lời dặn của
Lạc Long Quân...
Bấy
giờ ở làng Phù Đổng, bộ Võ Ninh, thuộc tỉnh Bắc Ninh bây giờ, có một
người đàn bà đã ngoài sáu mươi tuổi, cách mấy năm trước, ra đồng trông
thấy một vết chân người to lớn. Lấy làm lạ, bà ta liền đặt chân mình vào
ướm thử, bỗng nhiên tâm thần giao động. Về nhà liền thụ thai, sinh ra
một đứa con trai đặt tên là Gióng. Tuy đã được ba tuổi, nhưng Gióng
không biết lẫy, không biết bò, không cò rò biết đi và cũng chẳng nói
được một tiếng nào.
Nhưng
lạ thay, khi sứ giả của vua Hùng Vương đi qua đấy, Gióng liền ngồi lên,
rồi cất tiếng yêu cầu mẹ mời sứ giả đến. Bà mẹ vô cùng kinh ngạc, nhưng
cũng chiều ý con, đi mời sứ giả tới. Gióng liền bảo sứ giả về tâu vua
cho đúc một con ngựa sắt và một thanh gươm sắt để đuổi giặc.
Nhớ
lời tiên tri của Lạc Long Quân, vua Hùng Vương biết đó là thần nhân,
liền cho đúc ngay một con ngựa sắt và một thanh gươm sắt.
Khi
sứ giả của vua mang đủ các thứ đến nhà, Gióng đứng lên, vươn vai thành
một người to lớn dị thường, bảo mẹ nấu cơm cho ăn và xin mặc áo. Bà mẹ
nấu liên tiếp mấy nồi cơm, nhưng Gióng ăn không no. Cả làng phải góp
gạo, giết gà, mổ heo, làm cơm cho Gióng ăn. Gióng ăn rất khỏe, ăn mãi mà
vẫn chưa thỏa. Cả làng xóm góp vải vóc để may quần áo cho Gióng mà vẫn
không đủ với tầm thước của Gióng.
Gióng
đội nón, cầm gươm, nhảy lên ngựa sắt thúc chạy nhanh như gió. Trong
miệng ngựa bỗng nhiên khạc ra lửa. Ngựa phi nhanh như sấm sét, mang
Gióng ra chiến trường.
Giặc
Ân trông thấy Gióng như một thiên thần xông pha ngang dọc. Gióng đi đến
đâu thì ngựa phun lửa đốt cháy quân giặc tới đấy. Các tướng Ân bị gươm
của Gióng chém chết ngã rạp như chuối. Giặc Ân chạy trốn trối chết, thây
người chồng chất ngổn ngang.
Đang
tung hoành giữa chiến trận, thanh gươm sắt bị gãy ngang, Gióng thuận
tay nhổ luôn bụi tre bên đường đập vào đầu quân giặc hung ác, làm chúng
rối loạn hàng ngũ.
Dẹp
xong đám giặc Ân khát máu, Gióng phi ngựa chạy lên núi Sóc, trút bỏ
quần áo lại, rồi cả người lẫn ngựa đều bay bổng lên trời.
Tương
truyền các ao hồ từ những vùng Kim Anh, Đa Phúc cho đến Sóc Sơn đều do
dấu chân ngựa sắt của Gióng để lại. Khu rừng chỗ giặc Ân bị đốt chết
cháy ngày nay vẫn còn mang tên là làng Cháy.
Nhớ
công ơn đã trừ giặc bạo ác cứu nước, vua Hùng Vương liền phong cho
Gióng chức Phù Đổng Thiên Vương. Còn người đời thường gọi Gióng là Thánh
Gióng.
Ca dao có câu :
- Làng Phù Đổng có một người,
Sinh ra chẳng nói chẳng cười trơ trơ.
Những ngờ oan trái bao giờ,
Ai hay thần tướng đợi chờ phong vân.
Ngày
nay, nói tới ngựa sắt là thiên hạ lại nghĩ ngay đến những chiếc xe gắn
máy được thanh niên nam nữ phóng như bay và bóp còi inh ỏi trên đường
phố.
Chuyện thứ hai về ngựa đá.
Tương
truyền rằng giặc Mông Cổ tràn sang xâm lấn nước ta. Hưng Đạo Vương phải
một trận thư hùng tại sông Bạch Đằng, đuổi quân Mông Cổ không còn một
manh giáp.
Khi
tan trận, vua Trần Nhân Tôn thấy ngựa đá ở trước lăng tẩm, chân đều vấy
bùn và mình rịn mồ hôi, nên nhà vua tin rằng nhờ anh linh các bậc tiên
đế cưỡi ngựa đá theo giúp đuổi giặc, nên Hưng Đạo Vương mới chiến thắng.
Vì thế, nhà vua liền ngửa mặt lên trời mà cảm tạ :
- Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
Có nghĩa là :
- Xã tắc hai lần nhọc ngựa đá,
Non sông ngàn thuở vững ngai vàng.
Sau cùng, chuyện thứ ba về ngựa gỗ.
Chuyện
này xuất phát từ thần thoại Hy lạp. Số là để đột nhập vào thành Troie,
chàng dũng sĩ Ulysse đã phải làm một con ngựa gỗ thật lớn và đem dâng
cho dân thành. Thế nhưng, chàng đã ém một số binh lính tinh nhuệ trong
bụng con ngựa gỗ khổng lồ ấy. Khi cổng thành được mở ra, lập tức các
binh lính nhào tới, đánh chiếm thành và đã chiến thắng vẻ vang.
Nhìn
những con ngựa chiến thật oai phong lẫm liệt với những đặc tính vừa dễ
thương lại vừa dễ mến. Tuy nhiên, những đặc tính dễ thương và dễ mến
này, một khi được áp dụng cho con người, thì lập tức chúng bị biến thái,
trở thành vừa dễ thù lại vừa dễ ghét.
Như trên chúng ta đã thấy, ngựa là một trong những loài vật giúp ích rất nhiều cho con người, thế nhưng khi rủa :
- Đồ ngựa.
Hai chữ “đồ ngựa” này lại ám chỉ hạng đờn bà con gái lẳng lơ và trắc nết.
Cũng
vậy, mặt ngựa tuy dài, sống mũi thẳng và cao bằng trán, nhưng cũng đẹp
đáo để, chẳng thế mà anh chàng tài tử Fernandel, người Pháp, vốn được
mang biệt danh là “mặt ngựa” vì mặt của anh chàng này khí dài, đã nổi
tiếng khắp thế giới, đã hốt bạc với những cuốn phim của mình và tên tuổi
còn được ghi lại trong từ điển Larousse. Thế nhưng, khi chửi :
- Lũ đầu trâu mặt ngựa.
Bốn chữ “đầu trâu mặt ngựa” này lại ám chỉ bọn ác ôn côn đồ, không biết thương người.
Một
đặc tính khác của ngựa đó là rất nhớ đường. Chỉ một lần đi qua, lập tức
đoạn đường liền được ghi vào bộ nhớ của nó, nhất là khi bị bán đi xa,
nó thường tìm cách trở về con đường cũ mà tìm lại chủ xưa. Vì thế, người
ta mới bảo :
- Ngựa quen đường cũ.
Bốn
chữ “ngựa quen đường cũ” này lại ám chỉ những thói hư khó bỏ. Một người
đã quen làm việc xấu, thì dù được khuyên bảo để trở nên lương thiện,
thì rồi vẫn chứng nào tật ấy, mèo vẫn hoàn mèo và chó đen vẫn giữ mực để
rồi cuối cùng vẫn nhớ tật cũ mà làm quấy, làm xằng , làm bậy lại mà
thôi.
Ngoài
ra, như gã đã trình bày : ngựa rất khoái chạy và chạy càng nhanh càng
tốt, nhất là lại chạy như gió nữa thì quả là tuyệt vời. Chả thế mà người
ta đã gọi những con ngựa tuyệt vời ấy là “ngựa truy phong”, có nghĩa là
ngựa chạy theo được gió. Thế nhưng, khi kết án ai là :
- Hạng quất ngựa truy phong.
Bốn
chữ “quất ngựa truy phong” này lại ám chỉ kẻ dùng những mánh khóe lừa
gạt người khác rồi bỏ trốn. Cụ thể như anh đờn ông mở miệng ra là “nói
khó” cùng chị đờn bà để được yêu thương. Thế nhưng, khi đã đạt mục đích,
khi “con ong đã tỏ đường đi lối về”, thì liền “quất ngựa truy phong”,
lập tức... biến mất tăm mất tích, mặc cho chị đờn bà bụng mang dạ chửa.
Rõ là đồ sở khánh, Rõ là phường đểu giả.
Cho đến bây giờ, sau nhiều đêm suy gẫm, gã vẫn chẳng hiểu được tình trạng biến thái từ ngựa sang người lại tồi tệ đến như vậy.
Món
thịt ngựa do gã chế biến xem ra cũng đã đủ gia vị ngọt bùi đắng cay.
Giờ đây, trước khi nghỉ xả hơi cho những ngày tết, gã xin kể lại mẩu
chuyện sau đây như một kết luận.
Tương
truyền rằng Tái Ông có một con ngựa đực. Ngày kia, con ngựa buồn tình
bỏ đi hoang mất tiêu. Bà con lối xóm thấy vậy liền đến hỏi thăm và chia
buồn. Thế nhưng, Tái Ông bảo :
- Biết đâu là phước đó.
Cách
mấy hôm sau, con ngựa trở về và dẫn thêm mấy con ngựa cái nữa. Bà con
lối xóm thấy vậy liền đến hỏi thăm và chia vui, Thế nhưng, Tái Ông nói :
- Biết đâu là họa đó.
Quả
nhiên mấy hôm sau, các con ông thấy ngựa đẹp bèn tranh nhau cưỡi, chẳng
may sẩy tay, té ngã gẫy chân. Lối xóm hay tin liền đến hỏi thăm và chia
buồn. Thế nhưng, Tái Ông bảo :
- Biết đâu là phước đó.
Đúng
vậy, quê nhà có giặc, loạn ly khắp nơi, đất nước cần lính nên mộ binh,
con ông nhờ gẫy chân mà không phải thi hành nghĩa vụ quân sự.
Như
vậy, chúng ta mới thấy việc họa phước chẳng biết đâu mà đoán lường
trước được. Có khi họa xảy đến liên miên cho điêu đứng khổ sở. Nhưng
thường là :
- Họa vô đơn chí, phước bất trùng lai.
Có
nghĩa là : tai vạ không đến một mình, thường tai vạ này nối tiếp tai vạ
khác. Còn vận may thì trái lại, không dễ có hai lần cùng lúc.
Cũng
như Tái Ông mất ngựa, gã xin cầu chúc cho bàn dân thiên hạ khắp bốn
phương trời, trong năm con ngựa này, dù có gặp phải xúi quẩy, thì những
xúi quẩy này cũng mau chóng biến thành hên may.
Hay như lời Đức Kitô đã phán :
- Hôm nay các con phải buồn khổ, nhưng ngày mai nỗi buồn của các con sẽ trở nên niềm vui.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét