Trang

Nhãn

29 tháng 7 2013

PHẦN MỘ BÀ MARIA BÙI THỊ HỢI


PHẦN MỘ CỤ BÀ: MARIA BÙI THỊ HỢI
1957-1960 Sống tại Kênh F2, Xứ Châu Sơn (tên cũ của GX Đồng Công)
1960 -2013 Sống tại Khu Ông Tạ, Quận Tân Bình, TPHCM
Từ trần 24.7.2013 - Hưởng thọ 78 tuổi
An táng tại Nghĩa trang GX Châu Nam, Huyện Hóc Môn

20 tháng 7 2013

MỤC TỬ NHÂN HẬU (Ý TV 23)




Ôi lạy Chúa! Ngài là mục tử,
Chăn dắt tôi gìn giữ suốt đời.
Thênh thanh đồng cỏ xanh tươi,
Tôi no nê lắm nghỉ ngơi an toàn.

Ngài dẫn tới suối tràn nguồn nước,
Uống thỏa thuê bổ sức trong tôi.
Vì danh dự ở nơi người,
Lối ngay nẻo chính dắt tôi lên đường.                                                   

Dẫu lội suối qua truông bờ bụi,
Dù băng rừng vượt núi gian nguy.
Chúa hằng bên cạnh lo gì?
Trượng côn bảo vệ bước đi vững vàng.

Này mâm cỗ cao sang sẵn đặt,
Tôi nâng ly trước mặt quân thù.
Đầu đây chải chuốt công phu,
Rượu ngon đầy cốc tràn dư thỏa lòng.

Sự nhân hậu và hồng ân Chúa,
Ấp ủ tôi chan chứa khôn nguôi.
Ung dung ở Thánh điện Người,
Năm dài tháng rộng đời đời triền miên.
Bùi Nghiệp

19 tháng 7 2013

TANG LỄ ĐỨC CHA MICAE



Đức Cha Nguyễn Khắc Ngữ, vị Giám Mục tiên khởi của Giáo Phận Long Xuyên đã được Chúa gọi về lúc 11g ngày 10 tháng 06 năm 2009, thọ 100 tuổi. 

1. TIỂU SỬ:
Đức Cha Micae:
- Sinh ngày 02/02/1909 tại Vạn Đồn, huyện Thụy Anh, Thái Bình.
- 1922: Nhập Tiểu Chủng Viện Mỹ Sơn, Lạng Sơn.
- 1928: Du học tại Đại Chủng Viện Lucon, Pháp.
- 29/6/1934: Thụ phong Linh Mục tại Đại Chủng Viện Lucon, Pháp.
- 1934-1938: Giáo sư Tiểu Chủng Viện Mỹ Sơn, GP. Lạng Sơn.
- 1938-1939: Thư ký Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh tại Huế, kiêm Giám đốc tòa báo Sacerdos Indosinenses.
- 1940-1943: Coi Tiểu Chủng Viện Mỹ Sơn, GP. Lạng sơn.
- 1943-1951: Chánh xứ Lộc Bình và xứ Mỹ Sơn, GP. Lạng sơn.
- 1951: Tổng Đại Diện/ Cha Chính Giáo phận Lạng Sơn.
- 1954-1960: Chánh xứ Lạng Sơn, Xóm Mới, Gò Vấp và Quản Hạt Gò Vấp.
- 1957: Đặc ủy phó Công Giáo Tiến Hành Việt Nam.
- 1958: Xử lý thường vụ Công Giáo Tiến Hành Việt Nam.
- 8/1960: Phó Giám đốc kiêm Giáo sư môn Giáo Phụ và
Công Giáo Tiến Hành tại Đại Chủng Viện Lê Bảo Tịnh, Sàigòn.
- 24/11/1960: Tòa Thánh bổ nhiệm Giám Mục tiên khởi Giáo Phận Long Xuyên.
- Khẩu hiệu Giám mục: “Christus In Vobis” (Chúa Kitô trong Anh Chị Em).
- 22/01/1961: Lễ tấn phong Giám Mục tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Sàigòn do Đức TGM Pierre- Martin Ngô Đình Thục chủ phong với sự thụ phong của hai Đức Cha Jean Cassaigne, M.E.P., và Thadeus Lê Hữu Từ, O. Cist.
- 04/04/1961: Nhậm chức Giám Mục Giáo Phận Long Xuyên.
- 30/12/1997: Hưu dưỡng tại Long Xuyên sau hơn 36 năm cai quản Giáo Phận.
- 10/06/2009: Về nhà Cha lúc 11giờ. Thọ 100 tuổi.

2. THÁNH LỄ AN TÁNG
Mặc dù đến 9g30 mới bắt đầu cử hành Thánh lễ An táng, nhưng ngay từ 7giờ đã có nhiều người từ khắp nơi hướng về Nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên. Theo sắp xếp của Ban Tang lễ, hơn một nửa số ghế ngồi trong nhà thờ là dành cho các Linh mục đồng tề, tu sĩ nam nữ, cựu chủng sinh, thân nhân của Đức Cha Cố và một số khách mời, nên muốn tìm một chỗ ngồi trong nhà thờ để dự lễ an táng thì phải đến từ sớm.
Quan tài Đức Cha Cố nằm êm đềm trên thảm đỏ, sát nền gạch giữa lòng Nhà thờ Chánh Toà, các Thầy luôn túc trực cầu nguyện bên cạnh Đức Cha Cố. Hai bên là hai ghế dành riêng cho Đức Cha Gioan Baotixita và Đức Cha Giuse, sau hai Đức Cha là 4 ghế dành cho cha Tổng Đại diện Lê Văn Kim, cha Đại diện Nguyễn Văn Việt, cha Đại diện Lê Xuân Tân và cha Nguyễn Đức Chính, đại diện Linh tông của Đức Cha Cố. Như vậy, các Đức Giám Mục và Linh mục đồng tế sẽ ngồi trên gian cung thánh và hai dãy ghế hai bên. Giáo dân vẫn lần lượt đến viếng và cầu nguyện bên cạnh quan tài Đức Cha.
Từ 8g30, các Giám mục và Đại diện Giám mục từ các Giáo phận lân cận đến tham dự thánh lễ cũng lần lượt vào viếng và cầu nguyện. Lúc này, hàng rào danh dự do các em thiếu nhi của Giáo xứ đảm trách đã được dàn hàng để đón chào các Giám mục và Linh mục.
Đúng 9g30, đoàn đồng tế tiến vào nhà thờ trong khi cộng đoàn cùng cất bài ca nhập lễ. Dẫn đầu là Thánh giá, nến cao, các thầy giúp lễ, thầy phó tế kiệu sách Phúc âm, rồi đến các Linh mục, sau đó là các Giám mục: Giuse Châu Ngọc Tri, Antôn Vũ Huy Chương, Phaolô Bùi Văn Đọc, Phêrô Trần Đình Tứ, Tôma Nguyễn Văn Tân, Giuse Vũ Duy Thống, Stêphanô Tri Bửu Thiên, Laurensô Chu Văn Minh, Giuse Đặng Đức Ngân, Giuse Ngô Quang Kiệt, Giuse Trần Xuân Tiếu và sau cùng là Đức Cha chủ tế Phêrô Nguyễn Văn Nhơn. Trước đó, vào lúc 9g, Đức Cha Gioan Baotixita đã đến cầu nguyện trước quan tài và ngồi vào ghế của mình để chuẩn bị dâng Thánh lễ.
Trước khi cử hành Thánh lễ, cha Đại diện Lê Xuân Tân đọc tiểu sử Đức Cha Cố, đọc diện văn chia buồn của Toà Thánh và của Đức Cha chủ tịch HĐGMVN cũng như liệt kê những phân ưu và kính viếng của đại diện các TGM, dòng tu, tu hội, chính quyền, đoàn thể và cá nhân. Sau bài Phúc âm do Thầy Phó tế công bố, Đức Cha Gioan Baotixita Bùi Tuần giảng lễ (xin xem chi tiết trong bài giảng).
Sau lời nguyện hiệp lễ, Đức Cha Giuse đại diện cho gia đình giáo phận nói lên lời cảm ơn đến Toà Thánh qua điện văn chia buồn của Đức Hồng Y Ivan Dias, tổng trưởng Bộ Truyền Giáo, Đức Cha chủ tịch HĐGMVN, các Đức Giám mục, các Tổng Đại diện, đại diện Giám mục, quý bề trên dòng, quý cha, quý tu sĩ và anh chị em giáo dân gần xa.
Kế đến, cha Tổng Đại diện Lê Văn Kim thay mặt Giáo phận nói lời từ biệt vị cha già đáng kính (xem chi tiết).
Trước khi đến phần nghi thức tiễn biệt, ca đoàn các Thầy Đại Chủng Viện hát lên bài ca giã biệt Đức Cha trong tâm tình dâng hiến ngài cho Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sau phần tiễn biệt do Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt chủ sự, quan tài được di chuyển ra phần mộ ở vườn hoa trong khuôn viên nhà thờ. Thánh giá nến cao dẫn đầu đoàn rước, rồi đến các tu sĩ nam nữ, các Linh mục và Giám mục, rồi đến di ảnh của Đức Cha Micae. Theo sau di ảnh là những bước chân chậm rãi của Đức Cha Gioan Baotixita bên cạnh một thầy phụ giúp. Sau cùng là quan tài Đức Cha Micae được di chuyển nhịp nhàng do đội đạo tì phường Mỹ Phước, TP Long Xuyên đảm trách.
Trước khi hạ huyệt, Đức Cha Giuse đọc lời nguyện và làm phép huyệt, rảy nước thánh và xông hương. Sau khi quan tài đã được hạ huyệt, các Đức Cha lần lượt đến tiễn biệt Đức Cha Micae bằng một nắm cát xuống huyệt mộ trong tiếng nhạc trầm lắng du dương.
Các Linh mục, Tu sĩ và giáo dân cũng lần lượt đến tiễn đưa người cha đáng kính bằng việc cúi mình lặng lẽ trước huyệt mộ. Thế là thân xác ngài sẽ vĩnh viễn nằm lại nơi đây trong sự nhớ thương của đoàn con cái hàng ngày, trong sự mong đợi ngày Phục sinh cùng với Chúa Kitô, Đấng mà ngài đã suốt đời phụng sự.
Lm. Phaolô Lê Bá Tùng
Nguồn: gplongxuyen.net





















17 tháng 7 2013

Lược Sử Giáo Phận Long Xuyên



Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

A. Lược Sử Giáo Phận Long Xuyên
Giáo phận Long Xuyên trước đây lần lượt thuộc các giáo phận: Ðàng Trong (1679), Tây Ðàng Trong (1844), Nam Vang (1850), Cần Thơ (1955). Cha F. José Garcia đến Hà Tiên lần đầu, đã cùng với giáo dân Hà Tiên dựng nhà thờ mới vào năm 1735. Ðến năm 1743, Ðức cha Armand Francois Lefèbvre đến ban phép Thêm Sức cho 100 người tại Hà Tiên, chứng tỏ vùng đất Long Xuyên được các thừa sai đến đây rao giảng Tin Mừng từ trước. Nhưng kể từ cha José Garcia, dòng Phanxicô và các thừa sai đến sau, các linh mục, tu sĩ và giáo hữu Long Xuyên dần dần xây dựng giáo phận của mình.
Từ năm 1735, khi cha José Garcia nhận coi sóc họ đạo Chợ Quán và các tỉnh miền Tây, vùng Long Xuyên "chính thức" phát triển. Năm 1745, cha José làm lại nhà thờ rộng lớn hơn, và mở rộng nhà xứ cho 8 thừa sai ở. Theo cha A. Launay, năm 1747, các cha dòng Phanxicô phục vụ các tỉnh phía Nam và có khoảng 5,500 giáo dân. Theo đề nghị của Ðức Khâm Sứ Tòa Thánh, năm 1749 tỉnh dòng Manila cử 8 linh mục sang giáo phận Ðàng Trong, cha Pedro Medina được phân công coi sóc giáo hữu tại Hà Tiên. Từ năm 1750-1754, tại Hà Tiên có 5 cha dòng Phanxicô phục vụ. Cha José Garcia qua đời ngày 1-11-1761, ngài là người có công lớn trong việc truyền giáo từ Saigòn đến Hà Tiên.
Năm 1769, Chủng viện Thánh Giuse ở Hòn Ðất được dời đến Pondichéry (Ấn Ðộ), cha Pigneau de Béhaine (Bá Ða Lộc) cùng đi với các chủng sinh. Ngài được tấn phong giám mục ngày 14-3-1774 tại Ấn Ðộ. Ngày 14-3-1776, Ðức cha về Hà Tiên, khi đó Hà Tiên có khoảng 1,000 giáo dân; ngài lập thêm họ đạo Pi Nha Lu, di dời chủng viện. Ðến năm 1778, Ðức cha Bá Ða Lộc lại cho chuyển chủng viện đến Tân Triều (Biên Hòa). Từ Hà Tiên, các cha Phanxicô đi tới Lào và Cao Miên để truyền giáo. Năm 1790-1800, các tỉnh miền Tây, Lào và Cao Miên được thêm 6 linh mục. Ðến năm 1813, khi cha Bề Trên ở Manila gọi hết các cha dòng Phanxicô về, các tỉnh miền Tây đã có số giáo hữu với cơ sở vật chất khá vững mạnh như ở Bò Ót, Năng Gù, Cù Lao Giêng (nơi có nhiều vị tử đạo, tiểu chủng viện, dòng Chúa Quan Phòng). Sau Công Ðồng Gò Thị, cha D. Lefèbvre Ngãi được tấn phong Giám Mục, ngài trở về Cái Nhum tiếp tục phục vụ.
Năm 1850, theo đề nghị của Ðức cha D. Lefèbvre Ngãi, Tòa Thánh tách một phần đất thuộc giáo phận Tây Ðàng Trong để thành lập giáo phận Nam Vang (trọn phần đất Khơ Me), đặt Ðức cha J.C. Miche Mịch coi sóc.
Cuối năm 1833, dưới triều vua Minh Mạng, nhiều giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân chịu tra tấn, lưu đày. Từ đó đến năm 1862 và thời Văn Thân, hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân phải chịu nhiều cực khổ, dùng chính sự sống để minh chứng Tin Mừng Ðức Kitô tại Long Xuyên, nổi bật là cha Thánh Phêrô Ðoàn Công Quý và Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng (ông câu) lãnh triều thiên nhân chứng đức tin ngày 31-7-1859.
Năm 1938, An Giang có 4 giáo xứ, 30 giáo họ và 12,067 giáo dân; Kiên Giang có 3 giáo xứ, 18 giáo họ và 5,127 giáo dân; huyện Thốt Nốt (Cần Thơ) có giáo xứ Bò Ót gồm 1,807 giáo dân.
Ngày 24-11-1960, Ðức Gioan XXIII ban Sắc chỉ Christi Madata thành lập giáo phận Chính tòa Long Xuyên gồm: tỉnh An Giang, Kiên Giang và một phần tỉnh Chương Thiện thuộc giáo phận Cần Thơ trong giáo tỉnh Saigòn, và đặt Ðức cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ làm giám mục chính tòa Long Xuyên. Lúc đầu, giáo phận Long Xuyên gồm hai tỉnh Kiên Giang và An Giang (gồm cả Thốt Nốt, trước 1975 Thốt Nốt thuộc tỉnh Cần Thơ). Ðức cha Nguyễn Khắc Ngữ cai quản giáo phận từ năm 1960-1997. Trước cuộc di cư năm 1954, giáo phận Long Xuyên chỉ có hơn 10 xứ đạo với khoảng 30,000 tín hữu, nhưng số giáo dân từ miền Bắc ào ạt đến định cư tại các vùng kinh Cái Sắn đã nâng số giáo dân lên rất nhanh, đồng thời cũng đặt ra nhiều yêu cầu mới về mọi mặt. Ðức cha Micae đã tích cực giúp đỡ đồng bào di cư và làm cho giáo phận phát triển mạnh. Theo Niên Giám năm 1964, Long Xuyên có 93,739 giáo dân trên tổng số 1,252,705 người (chiếm 7.5%), 104 linh mục triều, 3 linh mục dòng, 185 nữ tu, 6 nam tu, 59 đại chủng sinh, 270 tiểu chủng sinh, 8 trường trung học, 78 trường tiểu học, 8 cơ sở bác ái từ thiện.
Ngày 30-4-1975, cha Gioan Baotixita Bùi Tuần được thụ phong giám mục với quyền kế vị. Giáo phận Long Xuyên được coi là một giáo phận có mức phát triển ổn định so với các giáo phận khác vì đây là vùng đồng bằng ít bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến tranh (1963-1975). Năm 1994, giáo phận có 200,000 giáo dân trong tổng số 3,670,000 người, 179 linh mục, 250 nữ tu, 51 chủng sinh, 87 giáo xứ và 156 nhà thờ lớn nhỏ.
Năm 1997, Ðức cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ nghỉ hưu và Ðức cha phó Gioan Baotixita Bùi Tuần lên kế vị giám mục Chính tòa.
Ngày 29-6-1999, Ðức cha Giuse Trần Xuân Tiếu được thụ phong và làm giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Ngày 2-9-2003, Ðức cha Gioan Baotixita Bùi Tuần chính thức nghỉ hưu và Ðức cha Giuse Trần Xuân Tiếu lên kế vị giám mục Chính tòa.
B. Ðịa Lý và Dân Số
Ranh giới: Giáo phận Long Xuyên gồm hai tỉnh An Giang, Kiên Giang và huyện Thốt Nốt thuộc tỉnh Cần Thơ với diện tích 10,255 km2. Có dãy Thất Sơn với ngọn núi Cấm cao 716m ở tỉnh An Giang giáp giới Cambodia. Long Xuyên có mạng lưới kinh rạch chằng chịt, ngoài ra còn có sông Hậu, một nhánh của sông Mê Kông chảy qua địa bàn tỉnh An Giang, cùng với sông Cái Lớn đổ ra biển Rạch Giá thuộc Kiên Giang.
An Giang cũng là nơi xuất phát nhiều tôn giáo đặc biệt của Nam Bộ như: Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật Giáo Hòa Hảo. Những tôn giáo này gắn liền với Thất Sơn, vùng núi huyền bí và linh thiêng. Ngoài ra còn có đạo Cao Ðài và Hồi Giáo.
Tổng số dân địa phương: 3,995,339 người. Ða số dân chúng làm nghề nông, nuôi trồng thủy sản và tiểu thủ công nghiệp (mộc, nuôi tằm, dệt lụa...).
Có nhiều sắc dân trong giáo phận: người Kinh, người Hoa, người Khơ Me, người Chăm...
C. Một số điểm đặc sắc của giáo phận:
1. Các thánh Tử Ðạo:
Hai vị tử đạo của giáo phận Long Xuyên: linh mục Phêrô Ðoàn Công Quý và ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng. Cả hai được phúc tử đạo tại Châu Ðốc ngày 31-7-1859 dưới triều Tự Ðức. Hiện có hai tượng đài để kính nhớ các ngài: một tại nhà thờ thị xã Châu Ðốc và một tại giáo xứ Cù Lao Giêng.
2. Danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử:
a. Tỉnh An Giang:
Tại Núi Sam có:
- Lăng Thoại Ngọc Hầu (1761-1829). Ông có công đào kênh Thoại Hà từ Long Xuyên đến Rạch Giá và kênh Vĩnh Tế dài 90km.
- Chùa Tây An với Ðức Phật Thầy Tây An, Giáo tổ của Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương.
- Thánh địa của Phật giáo Hòa Hảo ở Phú Tân.
- Miếu Bà Chúa Xứ có rất đông khách hành hương, đặc biệt vào Ngày Vía Bà (24-27 tháng 4 Âm Lịch) hằng năm.
- Ngoài ra còn có Núi Cấm, đồi Tức Dụp.
Thành phố Long Xuyên có:
- Ðền Tôn Ðức Thắng tại Mỹ Hòa Hưng (Cù Lao Ông Hổ).
Núi Tượng, huyện Thoại Sơn có:
- Óc Eo nổi tiếng với những di tích khảo cổ.
b. Tỉnh Kiên Giang:
- Hà Tiên có Lăng Mạc Cửu, Ðông Hồ, Thạch Ðộng, Ðá Dựng, Mũi Nai.
- Hòn Chông có hang Tiền, Bãi Dương, chùa Hang và hòn Phụ Tử.
- Phú Quốc với những bãi biển thơ mộng tuyệt đẹp, có nhiều di tích lịch sử.

(dựa theo Niêm Giám 2005 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam)