(Ba năm ngày mất
của LM Giuse Đào Thọ Sơn, cha sở
giáo xứ Đồng
Công F2, địa phận Long Xuyên – 06-07-2006)
Tên
của ngài là Đào Anh Thọ, nghe kể rằng vì trùng tên với nghĩa phụ nên dược đổi
thành Đào thọ Sơn, vị linh mục giáo sư đã rời bục giảng trường trung học Hòa
Bình, nhận bài sai của bề trên về coi sóc giáo xứ Đồng Công (Kinh F2) với thời
gian đáng nể: 39 năm ròng.
Gần
bốn mươi năm với bao nhiêu biến đổi thăng trầm, đôi tay linh mục đã trao vô vàn
bí tích hồng ân cho ba thế hệ, người cha chung tài hoa, bảo bọc, đức độ, mẫu mực,
thương yêu, hòa nhã, khiêm nhu và nổi bật nhất là đơn sơ hiền lành, đã để lại
cho ngàn con chiên cả ba thế hệ nhiều kỷ niệm êm đềm, nhiều gương sáng cho cho
các đấng chăn dắt kế nhiệm những bài học lãnh đạo tinh thần thiết thực.
Ngài
đã thanh thản về nước Hằng Sồng ở tuổi 80, đã trả Chúa Trên nén kim ngân sinh lời
vô số, thân xác ngài nghỉ yên trong khuân viên giáo đường, dưới hàng bóng cây
che mát, mắt ngắm nhìn trời cao và tai nghe tiếng chuông giáo đường ngân vọng,
những bước chân sớm chiều của đàn chiên về trại, xôn xao và đông đảo.
Ba
năm là hơn một ngàn ngày, nhân gian có giỗ đại tường, có lễ trừ phục, rũ bỏ
tang chế, nhưng tận đáy lòng con chiên thọ nhiều ân đức, làm sao quên người cha
chung kính yêu, người thầy chỉ bảo dậy dỗ đường lành, càng khơi lại bao nhiêu
nhân đức âm thầm trong suốt bốn mươi năm hành trình cùng đàn chiên giáo xứ.
Người
cha hòa giải:
Về nhận giáo xứ ở tuồi
40, thay thế cha già Trần Công Mục, độ tuổi chín chắn và năng động nhất trong đời
người, một giáo xứ với lời đồn thổi nguội lạnh đạo đức mà nóng bỏng tranh kiện,
đau đầu đến cả Đức Giám quản địa phận. Hình như đã có một câu vè “muốn lên thiên đàng thì về Kinh A, muốn ra ma
thi về Kinh F…” như để ví von cái bất kham của xứ đạo này. Định cư về đây
tiền thân là dân Bùi Chu và Thái Bình chẳng ưa nhau là mấy, bằng mặt mà chẳng bằng
lòng, đố kỵ bắt bẻ nhau từ lời ăn tiếng nói, từ tục lệ xa xưa, hiềm khích cứ âm
thầm kéo dài cả đến 10 năm. Ngài đến thăm hỏi từng nhà, sự cởi mở thân mật, sự
binh dị hòa đồng dần dần đánh tan những thành kiến cố hữu, “hai phe” đã bớt
kình địch, những mối lương duyên trai trẻ nảy sinh càng làm bền thêm sợi dây hữu
hảo, ngài là nhân tố chính trong cuôc bắt tay hòa giải, để cùng xây dựng một xứ
đạo sánh vai ngang bằng với các xứ láng giềng.
Người
thợ làm vườn nho không mệt mỏi:
Về
nhận giáo xứ, ngài bắt đầu xây dựng thánh đường mới, tại trung tâm điểm dân cư,
hai lô đất được sang nhượng lại, đã sẵn sàng chờ công sức những chàng trai vượt
lập, từng viên đất đào ao đắp thổ, thanh niên thiếu nữ ngày ngày ra sức góp
công, bao giọt mồ hôi là bấy nhiêu tiếng cười rộn rã, mệt lắm mà lại vui nhiều,
những bữa cơm nhà xứ chan hòa tình đoàn kết, đạm bạc và thiết tha. Cứ vậy theo
tháng năm trôi trôi, nhà xứ nhà thờ, trường tiểu học, cầu đúc bê tông, tượng
đài Đức Mẹ đã được hình thành, lại đến vượt lập nghĩa trang, cho người nằm xuống
yên giấc ngủ ngày về với đất, con đường “tống cố” rộng rãi thênh thang, tiện lợi
cho kẻ sống viếng thăm mộ chí người đã mãn phần.
Người
kiến thiết các hội đoàn:
Song
song với công việc dựng xây nhà Chúa, ngài quan tâm và thao thức nhiều đến kiến
thiết hoạt động các hội đoàn, trước đây chỉ có các hội Dòng Ba Đa Minh dành cho
ông bà lớn tuổi, hội Nghĩa Binh (nay là Thiếu nhi Thánh Thể) cho các em nhi đồng
và một hội hát với dăm cô thiếu nữ. Nay ngài khuyến khích mọi giới gia nhập
sinh hoạt thêm các hội đoàn, hội Con Cái Đức Mẹ, hội Đạo Binh Đức Mẹ (Legio
Mariae), hội Liên Minh Thánh Tâm, hội các Bà Mẹ Công Giáo và các ca đoàn giáo xứ,
bầu khí sinh động hẳn lên, mạch sống tâm hồn lâu nay ngưng trệ đã được khơi
dòng, mỗi chiều chung quanh nhà thờ náo nhiệt đủ giới rộn ràng.
Ngoài các hội đoàn
trên, với bản chất người nghệ sĩ, ngài còn đồng ý cho thành lập các hội khác
như hội trống, hội trắc, hội mõ, hội bát âm và hội kèn tây, ngài như Đa-vít nhảy
múa trước hòm bia Thiên Chúa, tiếc thay các hội này chẳng đươc bền lâu, các
thành viên không ổn định vì cuộc sống đổi thay chỗ ở.
Người
cha của yêu thương:
Dám
khẳng định một điều, không một ai ghét được ngài vì ngài luôn khoan hòa nhân ái,
ngài bình dị tưởng không ai bình dị hơn, ngôn phong của ngài ai ai cũng hợp,
Kính trọng người già, hòa đồng người trẻ, hành xử thong dong không gượng ép, chẳng
bao giờ kết án một ai, bàn tay ngài như một suối nhạc réo rắt cung bậc yêu
thương, con đường ngài đi đúng theo thánh Gioan Vianey là quan thầy các cha sở,
sau năm 1975, ngài dám đem uy tín và cả mạng sống mình bảo lãnh cho cha cố Nguyễn
Thượng Uyển và cha giáo Đặng xuân Hải khỏi vòng lao lý, để cùng về coi sóc hai
họ trong giáo xứ.
Có
nhiều người bây giờ không còn trẻ, con cái họ sinh ra đã được ngài rửa tội, khi
chúng trưởng thành lại đã được ngài ban phép hôn phối, để hôm nay họ đã lên chức
ông bà nội ngoại đông đảo cháu con, lúc nào cũng nghe họ kể về ngài liên lỉ mà
chẳng chán tai.
Có
nhiều người già bây giờ không còn nữa, nhưng con cái họ kể lại, ngài đã xức dầu
bệnh nhân, trao của ăn đàng và ngậm ngùi tiễn đưa cha mẹ họ an nghỉ nơi nghĩa
trang.
Lại
có nhiều người không còn ở trong xứ đạo, vì cuộc sống phải cố lý tha phương, họ
luôn nhắc về ngài , mỗi người với lắm kỷ niệm khác nhau, cuộc đời truân chuyên
theo thời gian đã lãng quên nhiều thứ, sao kỷ niệm về ngài lại chẳng phôi phai.
-oOo-
Kỷ
niệm ba năm ngài giã từ trần thế, có những con chiên không còn định cư nơi xứ đạo
Đồng Công, họ đã lưu lạc bốn phương, nhưng đã liên kết rủ nhau xum họp trong
ngày này, lại lấy mốc thời điểm ngày ngài về nhà Chúa là ngày hội tụ đồng
hương, một ngày đáng nhớ, gặp nhau hàn huyên và trước di ảnh ngài, kính yêu thầm
thì hai tiếng: Cố Sơn.
(Bùi
Nghiệp SG-2009)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét