Chuyện Phiếm của Gã Siêu
Mấy
bữa nay ở Việt Nam bàu trời thật là ảm đạm. Hết “áp thấp nhiệt đới” thì liền
quay sang bão, thành thử mưa gió cứ sập xùi triền miên. Mà hễ cứ mưa to và gió
lớn, thì y như rằng thế nào cũng cúp điện. Đây chính là một căn bệnh mãn tính
của ông điện lực phe ta.
Giá
như ở nước ngoài, có lẽ thiên hạ đã lôi ông ta ra ba tòa quan lớn mà đòi bồi
thường thiệt hại, còn ở đây, thà rằng vạch đầu gối lên mà than vắn thở dài còn
hơn. Có vác đơn đi kiện thì cũng chỉ như “con kiến mà kiện củ khoai” mà thôi.
Ngày
xưa khi còn xử dụng chiếc máy chữ cà rịch cà tàng, thì bất kể thời tiết nắng
mưa, ngày và đêm, lúc nào cũng có thể ngồi vào bàn mà gõ lóc cóc.
Còn
bây giờ, ti toe bắt chước thiên hạ, đèo bồng chiếc vi tính, thành thử hễ cúp
điện là thất ngiệp, ngồi chơi xơi nước, hay ngáp vặt chờ cơm.
Vì
thế, để điền vào những khoảng trống cho hợp nghĩa, gã bèn lôi hết các thứ sách
vở, báo chí cũ ra đọc, để cho chúng khỏi mốc meo…đọc cho đến lúc mờ cả mắt mới
thôi. Và đoạn sách hôm nay gã ghiền gẫm nói về lịch sử dân Do thái, đại khái
như thế này :
Vào
năm 66, nhóm “Zélotes” đã phát động một cuộc nổi dậy, chống lại sự thống trị
tàn bạo của các viên chức La mã. Vì thế, vào năm 70, tướng Titus đã đem quân
chiếm đóng Giêrusalem, thiêu hủy đền thờ, hàng ngàn người Do thái đã bị giết,
còn phần đông đã bị bắt đi làm nô lệ. Đất nước Do thái tan hoang từ đó.
Trong
nhiều thế kỷ, người Do thái lưu vong đã bị dân Âu châu nhìn bằng một cặp mắt
khinh bỉ về phương diện dân sự vì họ chỉ là những kẻ ngoại lai, coi thường về
phương diện tinh thần vì họ chẳng có một nền văn hóa nào cả, cũng như về phương
diện tôn giáo vì họ là quân “Giu dêu” đã giết Chúa.
Trong
khi đó, giải đất Palestine lần lượt bị những người Ả rập và Thổ nhỉ kỳ thống
trị.
Mãi
cho đến năm 1879, cuộc cách mạng Pháp mới công nhận quyền tự do của người Do
thái. Rồi sau đó, nhiều chính phủ khác cũng đã chấp nhận lập trường ấy. Và
người Do thái đã liên tục phát triển một cách rất đặc biệt. Họ trở nên những
ông chủ của ngành tài chánh và báo chí thế giới.
Sau
khi cuộc đại chiến lần thứ hai kết thúc, Liên hiệp quốc, vào năm 1947, đã phân
chia giải đất Palestine thành hai miền riêng biệt , rồi ngày 15 tháng 8 năm
1948, nhà nước Israel được chính thức thiết lập và những người Do thái từ khắp
nơi trên thế giới lục tục kéo nhau về để xây dựng lại quê hương đất nước.
So
sánh sự kiện năm 70 của dân Do thái với sự kiện năm 1975 của người Việt Nam, gã
nhận thấy mình hơn hẳn họ ở nhiều điểm.
Trước
hết, nhờ biến cố này mà hôm nay người Việt Nam mình đã có mặt trên toàn cõi địa
cầu, không riêng gì bên châu Âu hay châu Mỹ như dân Do thái, mà còn ở
khắp mọi nơi, từ nam chí bắc, từ đông chí tây.
Nếu
ngày xưa cha ông chúng ta đã bảo : đi một ngày đàng, học một sàng khôn, thì
không hiểu đồng bào ta ở nước ngoài đã thâu lượn được biết bao nhiêu “xe tải
chất đầy sự khôn ngoan” của cả và thiên hạ.
Hơn
thế nữa, khả năng “tiêu hóa” của người Việt Nam mình lại thuộc vào hằng siêu
đẳng, bằng chứng là ngày xưa Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo đã được cha ông
chúng ta “cập nhật hóa” thành cái vốn riêng của nền văn hóa dân tộc.
Hay
như Kitô giáo với nền văn minh phương tây đặt chân tới miền đất khỉ ho cò gáy
này, thì cha ông chúng ta đã mượn tạm bản mẫu tự La tinh mà chế biến thành chữ
quốc ngữ ngày hôm nay.
Và
như thế, đồng bào chúng ta ở nước ngoài đã, đang và sẽ còn gạn lọc được những
tinh hoa, những cốt lõi của muôn dân, muôn nước trên thế giới. Gã mong rằng họ
sẽ là những con tằm sẽ nhả ra được những sợi tơ vàng óng ánh.
Tiếp
đến, trừ một vài nơi có nạn kỳ thị chủng tộc, dân địa phương sợ “nạn da vàng”
như sợ một chứng bệnh dịch nguy hiển. Hay vì ghen tức với những thành công của
phe ta mà đem lòng thù oán, còn phần đông người Việt nam mình đều được vị nể,
chứ không bị khinh bỉ như dân Do thái ở Âu châu. Bằng chứng là trong lịch sử,
mỗi khi có những biến loạn, người Âu châu cứ nhè dân Do thái mà…xơi tái.
Và
sau cùng, người Việt Nam mình dù sinh sống ở nước ngoài, thì vẫn còn một quê
hương, một đất nước để hướng về, chứ không tan bày xẻ nghé như dân Do thái sau
khi Giêrusalem bị hủy diệt.
Cũng
vì ý thức đồng bào ở nước ngoài là một phần tử trong đại gia đình dân tộc, nên
nhà nước ta mới thay đổi hẳn lập trường, từ thái độ coi họ là những kẻ phản
quốc đến thái độ coi họ là những người yêu nước. Từ thái độ nghi kỵ thù oán đến
thái độ mở rộng vòng tay chờ đón.
Phải
chăng chuyển biến và đổi thay đã là một quy luật muôn đời. Vì nếu không chuyển
biến, không đổi thay, lúc nào cũng dậm chân tại chỗ, thì chắc chắn con người sẽ
rơi vào chỗ…tụt hậu, lẽo đẽo theo sau người ta mà vẫn chẳng kịp.
Qua
những tin tức về sinh hoạt của các cộng đồng người Việt, gã rất mừng vì những
thành công mà người mình đã gặt hái được nơi đất lạ quê người.
Thứ
nhất là những thành công trên con đường học vấn.
Gã
rất mừng vì có những bà già trầu, nếu như ở Việt Nam, thì chỉ biết cái xó bếp
nhà mình, cả đời chẳng hiểu có được một lần ra thành phố hay không, thế mà giờ
đây cũng ti toe dăm ba câu tiếng Mỹ, tiếng Ăng lê, nào là con cá này nặng mấy
“pao”, nào là chiếc đò này dài mấy “phít”, rồi cũng “hai” giơ tay bắt khi gặp
nhau và “bai” vẫy tay chào khi rời nhau, khiến cho gã vô cùng cảm phục.
Gã
rất mừng vì có những thằng bạn, nếu như ở Việt Nam, thì cũng chỉ là dân “cu
trâu” suốt ngày chỉ biết đến thửa ruộng và ca bản “con trâu đi trước cái cày
theo sau”, có bửa đầu ra cũng chẳng thấy được một nửa tiếng OK hay Yes. Nếu ông
trời có đãi ngộ và số phận có mỉm cười, chui lên được thành phố, thì cũng chỉ
là dân cu li cu leo. Thế mà bây giờ chúng nghiễm nhiên trở thành kỹ sư điện tử,
chuyên viên máy móc. Thận chí có anh, khi công ti của mình giảm biên chế, rút
bớt nhân viên, thì anh không những chẳng bị loại trừ để ăn lương thất nghiệp,
mà còn được tăng lương, tăng cổ phần vì công ti sợ anh đi làm chỗ khác.
Chỉ
phiền một nỗi là khi trở về Việt Nam, anh đã quên béng mất cái thói quen
xơi…thịt chó mắm tôm, rồi lại còn sợ muỗi, sợ ruồi, sợ nước dơ… có đi đâu thì
cũng phải kè kè mấy chai nước khoáng bên mình, có tắm gội thì mấy đứa em phải
chịu khó đi xin vài gánh nước mưa từ nhà hàng xóm về cho anh dùng và nếu đứa
nhỏ của anh có đòi uống sữa thì phải dùng sữa thứ thiệc, “made in USA” chính
hiệu con nai vàng, mới bảo đảm chất lượng cho cái bao tử của đứa nhỏ.
Dường
như anh cũng đã quên béng mất cái gốc gác của mình, không còn nhớ mình cũng đã
xuất thân từ vùng đồng chua nước…phèn này. Thấy thế, gã cũng cảm thấy một
thoáng tủi hờn. Nhưng thôi hãy biết bằng lòng với số phận của mình.
Gã
rất mừng vì có những sinh viên học sinh Việt Nam ở nước ngoài đạt thành tích
cao trong những cuộc thi quốc tế, thậm chí có những sinh viên học sinh được
chính tổng thống nước Mỹ khen tặng. Phải chăng đây cũng là một niềm vinh hạnh
cho đất nước.
Biết
đâu trong một thời gian gần đây, những sinh viên học sinh này sẽ trở về để phục
vụ cho quê hương. Biết đâu mấy chục năm nữa, những sinh viên học sinh này sẽ
trở thành dân biểu, nghị sĩ và cũng biết đâu chừng là tổng thống của một đất
nước hùng mạnh, như Kennedy, tổng thống Hoa kỳ, vốn là dân Mỹ gốc Ái nhĩ lan,
như Fugimoto, tổng thống Ba tây, vốn là dân Brasil gốc Nhật…
Phải,
biết đâu cũng sẽ có một tổng thống Hoa kỳ, là dân Mỹ gốc Việt. Nghĩ tới đây, gã
cảm thấy vô cùng hồ hởi và niềm kiêu hãnh của dân tộc nổi lên đùng đùng.
Tuy
nhiên cho đến bây giờ gã vẫn còn nhớ lời phát biểu của một ông giáo sư ngoại
quốc về những sinh viên Việt Nam ở Saigon trước ngày giải phóng. Lời phát biểu
ấy như thế này :
-
Sinh viên Việt Nam rất thông minh. Nếu một sinh viên Việt Nam chọi với một sinh
viên ngoại quốc, dù là nước Nhật, nước Mỹ, nước Đức hay nước Pháp…thì sinh viên
Việt Nam cũng chẳng hề phải kiêng nể. Những nếu một nhóm sinh viên Việt Nam
chọi với một nhóm sinh viên ngoại quốc thì họ sẽ thua xa. Sở dĩ như vậy vì họ
không biết cộng tác, không biết làm việc chung với nhau.
Phải
chăng sự chia rẽ là một căn bệnh trầm trọng trong những cộng đồng Việt Nam ở
nước ngoài.
Những
chuyên viên Việt Nam ở nước ngoài. Quả thực đây là một kho tàng “chất sám” vô
giá, nếu như nhà nước ta biết lợi dụng, thì sẽ đem lại cho quê hương một tương
lai tươi sáng.
Gã
thử làm một phép tính : Gửi một thanh niên du học, từ lúc bước chân ra đi cho
đến lúc thành tài, nhà nước và gia đình phải tốn biết bao nhiêu công sức và
tiền của, thế mà cái “kho tàng chất xám” này như một quà tặng từ trên trời rơi
xuống, có nằm mơ cũng chẳng thấy được. Bỏ qua, không tạo điều kiện cho họ trở
về phục vụ thì quả là một lãng phí to lớn.
Thứ
hai là những thành công trong công việc làm ăn.
Gã
rất mừng vì đa số người Việt Nam đã ăn nên làm ra ở nước ngoài. Khởi đầu từ một
con số không khi đặt chân tới miền đất lạ, thế mà giờ đây họ đã có được một cơ
ngơi bề thế. Nào là con cái được học hành đến nơi đến chốn, nào là nhà
riêng, nào là xe riêng…sở dĩ như vậy vì họ là những người cần cù siêng năng lại
lắm sáng kiến.
Nhiều
người sẵn sàng “kéo cày” ngoài giờ lao động để được hưởng tiền lương cao. Cộng
thêm vào đó là tính tiết kiệm trong chi tiêu…nên họ phất lên trông thấy và mỗi
ngày một thêm khấm khớ khiến cho thiên hạ phát thèm rỏ dãi.
Gã
cũng rất mừng vì những người ngoài nước đã không quên mà còn nghĩ tới những
người trong nước bằng cách gửi quà hay tiền về để giúp đỡ, như cha ông chúng ta
ngày trước đã dạy :
-
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Thực
vậy, cho đến bây giờ người ta vẫn không thể làm được một thống kê đầy đủ cho
biết mỗi năm đã có bao nhiêu triệu đồng đô la được các Việt kiều gửi hay đem về
giúp đỡ cho thân nhân tại quê nhà, bởi vì có rất nhiều cách thức gửi : gửi qua
ngân hàng như Vietcombank, ngân hàng ngoại thương…gửi qua những cơ quan chính
thức được nhà nước cho phép, như Vina…gửi qua những Việt kiều về nước, gửi chui
qua những tổ chức tư nhân…Những cách thức sau này thì làm sao nhà nước có thể
nắm vững được mà lên bản thống kê.
Thế
nhưng, dù gửi bằng cách nào chăng nữa, thì những đồng đô la ấy vẫn có thể được
gọi là những đồng đô la nhân nghĩa, vì chúng đã được rót vào đất nước Việt Nam,
giúp đỡ những gia đình Việt Nam và được chính những người Việt Nam
tiêu dùng để cải thiện và nâng cao đời sống.
Đây
cũng lại là một thứ quà tặng từ trên trời rơi xuống, chẳng phải lao động mệt
mỏi, chẳng phải vật vả đầu tư mà cũng có được một số vốn bằng ngoại tệ kha khá
để làm giàu và làm đẹp cho xứ sở.
Thời
gian đầu, thiên hạ thường gửi về những thùng hàng. Mỗi khi đi lãnh hàng hay mỗi
khi nhận được hàng thì cả ấp đều biết, kéo đến chia vui và hỏi thăm. Tuy nhiên
việc nhận hàng và lãnh hàng đôi khi cũng có những vui buồn của nó. Gã xin phô
ra những chuyện riêng tư của bản thân mình.
Có
lần thằng bạn gã vửi về cho gã một gói hàng nho nhỏ, trong đó gồm một chai rượu
tây, một gói Pall Mall, một mớ trà Lipton và hai cục xà bông. Trong bức thư báo
trước hắn viết :
-
Gửi về cho mi một chai rượu tây để mi nhâm nhi cho quên chuyện buồn. Gửi về cho
mi một bao thuốc lá để mi ngồi hút rồi thả hồn theo khói mà mơ đến ta. Gửi về
cho mi mấy gói trà để mi uống mà sớm làm ông cụ non. Gửi về cho mi hai cục xà
bông để mi tắm gội cho sạch bụi trần…
Thì
ra hắn đã nhái một bài hát thịnh hành ở nước ngoài lúc bấy giờ, mà thỉnh thoảng
đài VOA vẫn phát đi, thế nhưng bây giờ gã không còn nhớ lời lẽ như thế nào,
hình như có câu :
-Gửi
về cho em dăm ba thước vải để em đem may làm chiếc áo cưới…
Thế
nhưng, khi đến lãnh, thì nhân viên bưu điện đã phán với gã :
-
Chai rượu tây và bao Pall Mall bị tịch thu vì bị liệt vào hàng…quốc cấm.
Thế
là mặt mũi gã ỉu xìu như chiếc bánh bao chiều.
Lần
khác, gã phải lặn lội lên tới tận thành phố, lãnh được một thùng hàng khá lớn.
Trên đường về, gã những khấp khởi mừng thầm :
-
Phen này ắt hẳn vớ ăn to.
Đến
khi khui thùng hàng ra thì mới vỡ nhẽ : Trong đó được chia làm hai mươi mốt
phần đều nhau. Hai mươi phần được người gửi nhờ gã chuyển cho xấp bạn của nó.
Còn gã thì cũng chỉ được một phần như mọi người. Nếu cộng tiền chi phí với tiền
đóng thuế rồi đem chia đồng đều, bắt mỗi người phải chịu một ít thì cũng kỳ,
còn để một mình gánh lấy tất cả thì cũng…đau.
Thế
nhưng gã thầm nghĩ :
-
Đau một tí cũng chẳng sao, biết đâu lần này mình thả con săn sắt, lần sau mình
bắt con cá rô.
Và
thế là đành phải vén môi cười trừ cho vui vẻ cả làng. Mặc dù lúc bấy giờ nụ
cười có phần méo mó và héo hắt.
Lần
khác nữa, một thằng bạn mở tiệm thuốc tây ở bên Mỹ gửi cho gã một thùng. Trong
thư hắn còn căn dặn :
-
Ngoại trừ một số thuốc cảm cúm thông thường, còn toàn thuốc mới nhất và mắc
nhất đấy, mi liệu mà nhớ cho kỹ.
Sau
khi nhận được, gã cũng chỉ giữ lại mấy loại thuốc cảm cúm thông thường, còn
những thuốc mới nhất và mắc nhất kia đành phải đem đi bán vì không biết nó trị
bệnh gì và liều lượng xử dụng ra làm sao. Chẳng lẽ bây giờ mình lại cầu cho
mình mắc phải những chứng bệnh ấy để rồi được xử dụng theo sự chỉ dẫn của bác
sĩ…Thậm chí có những thứ thuốc bác sĩ cũng vẫy tay chào thua vì chưa biết mặt
mũi chúng như thế nào.
Cũng
vì chúng mới quá nên chẳng tiệm nào dám mua. Thôi thì đành phải bán tống bán
tháo, được tí nào hay tí ấy. Và thế là tiền bán thùng thuốc chẳng được bao
nhiêu, lỗ chỏng gọng, lỗ chỏng vó so với giá tiền mà thằng bạn đã ghi trong
thư. Đau ơi là đau.
Gửi
hàng về vừa cồng kềnh, lại vừa phức tạp, nên dần dần thiên hạ bắt đầu chuyển
hệ, gửi tiền về vừa gọn nhẹ, vừa kín đáo lại vừa có thể xử dụng được ở mọi nơi
và trong mọi lúc.
Thực
vậy, nhiều lần mấy thằng bạn đã viết thư cho gã và bảo :
-
Mi cần gì thì cho biết, ta sẽ gửi về cho.
Và
gã đã phải mỉm cười, rủa thầm trong bụng chứ không dám viết thành chữ hay nói
thành lời thành tiếng mà rằng :
-
Ngu chi ngu lạ, đô la ai mà chẳng cần. Mi cứ thử gửi cho ta mấy chục bạc lẻ xem
ta có nỡ lòng nào mà từ chối hay không ?
Lại
nữa, không phải chỉ ở Việt Nam mà còn ở khắp nơi trên thế giới, đi tới đâu
chúng ta cũng đều nghe thấy vang vọng một điệp khúc :
-
Em chỉ thích bản nhạc có hai nốt đô và la mà thôi.
Bàn
về chuyện nhận đô la của những người thân gửi về, gã đã ky cóp tích lũy được
những mẩu chuyện vui vui.
Thỉnh
thoảng vào những buổi trưa hè oi ả, đang mơ mơ màng với giấc ngủ nặng nề, mồ
hôi mồ kê vãi ra nhễ nhại, thì bỗng một kẻ lạ hoắc bước chân vào nhà. Kẻ lạ ấy
có thề là đờn ông mà cũng có thể là đờn bà, có thể là thanh niên mà cũng có thể
là thiếu nữ. Kẻ lạ ấy mắt trước mắt sau, vội vã hỏi một vài câu vắn gọn :
-
Ông có ai quen ở bên Mỹ hay không ? Tên gì ? Bang nào ? Vui lòng cho mượn chứng
minh nhân dân.
Rồi
kẻ lạ đưa một mẩu giấy chỉ to bằng hai đầu ngón tay và nói :
-
Phiền ông hãy ghi là mình đã nhận đủ số tiền bằng này. Rồi ký tên. Nếu có nhắn
gửi gì cho người bên đó thì cứ việc ghi thêm vào.
Sau
đó, kẻ lạ mặt trao tiền, rồi vội vã ra đi như khi đã đến, không dám uống cả một
ly nước, hay một ly cà phê…vì sợ bị bỏ thuốc mê và bị trấn lột.
Có
lần gã gặp một nhỏ em, đang tập tễnh bước vào nghề này, nghề chuyển đô la cho
thiên hạ. Gã bèn nói :
-
Xin chào cô em, sứ giả đem tin vui đến cho mọi người.
Nghe
lời chào này, nhỏ em liền….”chu mỏ chuột” lên mà phát ngôn :
-
Ghét anh ghê, chỉ chọc quê người ta hoài. Chỉ có mình anh mới phong cho em làm
sứ giả mang tin vui. Nghe qua thì oách lắm, nhưng nghề này cũng thật lắm cái
long đong. Thức lâu mới biết đêm dài, có ở trong chăn mới biết chăn có rận.
Trước
cặp mắt tròn xoe vì ngạc nhiên của gã, nhỏ em thương tình liền cắt nghĩa :
-
Này nhé, anh thử nghĩ coi, thân gái dặm trường như em, trong mình ôm một bó
tiền, đi đến những nơi xa lắc xa lơ, gặp những người lạ hoắc lạ huơ. Có những
địa chỉ nằm ở tận trong hóc bà tó, đường xe không có, đường đò cũng không. Đi
bộ băng đồng mấy cây số, vừa đi vừa hỏi thăm, tới nơi trao vội trao vàng, đánh
mau rút lẹ, ở lâu chỉ sợ nguy hiểm. Nếu chẳng may bị kẻ gian giở trò thì không
khéo mất cả chì lẫn chài, cả vốn lẫn lãi. Tiền mất đã đành mà không chừng mạng
sống của mình cũng đi đoong luôn. Rất may là chưa gặp phải tình huống nào như
thế. Trừ chi phí đi lại, ăn uống rồi cũng chả được bao nhiêu, chỉ mấy mụ chủ ở
thành phố là…xơi được miếng to, mới ra nghề có mấy năm mà đã phất lên hẳn ra,
mua nhà mua đất.
Thuở
bấy giờ, ở những nơi khỉ ho cò gáy như nơi gã cắm dùi, thì làm gì được ông bưu
điện ghé mắt nhìn tới. Để liên hệ, gã đành phải mượn địa chỉ của một người ở
trên tỉnh. Ngày kia gã được người ấy nhắn lên để lĩnh tiền. Người ấy bảo :
-
Số tiền này từ bên Úc gửi về, mà mình chẳng có ai thân ở bên đó cả, nên chắc là
của chú mày đấy. Thôi, cứ cầm về xài đỡ.
Nhận
xấp tiền mà cứ băn khoăn thắc thỏm :
-
Sao mấy đứa bên Úc gửi mà chẳng báo. Thôi, kệ bà nó, tới đâu hay tới đó. Tiền
đến tay ta, ta cứ việc…thoải mái.
Và
thế là mùa xuân năm ấy, gã đã có được một cái tết tưng bừng khói lửa. Tiền lì
xì cho bọn nhóc cũng được tăng lên gấp đôi, gấp ba…Nhưng rồi ngày vui qua mau,
sau tết, người ấy bèn triệu gã lên mà phán :
-
Xin lỗi chú mày nhé, số tiền hôm trước chẳng phải của chú mày đâu mà là của
thiên hạ. Bây giờ mình mới nhận được thư báo. Vậy cảm phiền chú mày hãy mau mau
hoàn trả lại số tiền ấy để rồi mình còn trao cho họ nhé.
Ké
nhờ địa chỉ của người khác cũng lắm cái nhiêu khê và phức tạp. Vì thế, khi bàu
không khí đã thoáng đãng, không còn ngột ngạt nữa, gã bèn đăng ký một hộp thư
ngoài huyện. Có hộp thư riêng, gã liền được thiên hạ chiếu cố nhờ vả. Và khi
cho mượn địa chỉ đôi lúc cũng xảy ra những chuyện…phiền.
Có
lần vào ngày hai mươi chín tết, gã nhận được điện tín với nội dụng :
-
Mời ông lên địa chỉ số….để lãnh tiền.
Nhận
được bức điện này, gã vội vã khăn gói quả mướp đi ngày đi đêm để lên thành phố
vì đã cận tết lắm rồi. Thế nhưng lúc nhận tiền thì mới vỡ lẽ tiền không phải là
của mình, nhưng là của người này người nọ mà thiên hạ nhờ mình chuyển hộ.
Và
như thế, khi đi thì vui mừng hồ hởi vẽ ra trong đầu óc một cái tết huy hoàng,
còn khi về thì tiu nghỉu, ai hỏi cũng chẳng buồn thưa. Tới nhà thì mệt phờ râu
cá chốt. Tắm rửa qua quít rồi giao hàng. Chủ nhân có lẽ vì bận rộn với những
công việc dọn dẹp nhà cửa vào chiều ba mươi tết, nên rất vui vẻ cám ơn mà quên
béng mất những sự rất…đời thường còn lại.
Và
thế là gã cũng phải tự an ủi :
-
Việc đâu còn đó, cứ để cho thiên hạ vui vẻ cái đã. Sau tết mình sẽ tính toán
lại cũng chưa muộn cơ mà.
Có
khi phải đi vài ba lần mới lĩnh được tiền, nhưng rốt cuộc tiền lại không phải
là của mình, chỉ nhờ mình chuyển mà thôi. Kể cũng hơi đau. Nhưng thôi rán làm
việc lành để đức lại cho con cho cháu.
Tuy
nhiên, phải thẳng thắn mà công nhận rằng : nhờ những đồng đô la được rót về,
nhiều gia đình đã thoát khỏi cảnh nghèo túng khố rách áo ôm.
Thực
vậy, nhờ những đồng đô la nhân nghĩa này, nhà cửa được xây dựng lại cho mới.
Nhờ những đồng đô la nhân nghĩa này, cha mẹ già được chăm sóc hẳn hoi, những
người thân yêu được ăn mặc tươm tất và xấp nhỏ được học hành đến nơi đến chốn.
Nhờ những đồng đô la nhân nghĩa này, cuộc sống được cải thiện.
Có
mấy cán bộ gặp một linh mục và hỏi :
-
Tại sao xứ của linh mục không được phát triển như những xứ khác vì con số nhà
xây lại còn ít.
Và
linh mục này đã thẳng thừng trả lời :
-
Hiện nay tại Việt Nam, xứ nào có nhiều việt kiều, thì xứ ấy giàu và liên tục
phát triển. Hồi năm 1978, tôi đã nghe các ông, không ngừng khuyên nhủ giáo dân
hãy ở lại để xây dựng quê hương đất nước. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy mình
đã dại. Giá như hồi đó, tôi cứ nhắm mắt làm ngơ cho họ vượt biên, thì bây giờ
xứ tôi đâu có còn những mái nhà tranh vách đất xiêu vẹo.
Gã
xin khẩu phục tâm phục vị linh mục đã bạo mồm bạo miệng dám nói thẳng và nói
thực.
Gã
cũng xin khẩu phục tâm phục khi đọc thấy trên những tờ báo công giáo ở nước
ngoài như Mục vụ, Dân Chúa, Đức Mẹ hằng cứu giúp… có khoản kêu gọi yểm trợ cho
những giáo xứ nghèo, hay những tổ chức từ thiện tại quê nhà.
Và
gã càng xin khẩu phục tâm phục hơn nữa khi thấy có những việt kiều lúc về nước,
mặc dầu thời gian ít ỏi, cũng đã cất công lặn lội đến những trại cùi để trao
tận tay số tiền của mình hay của một số người chắt chiu dành dụm mà giúp đỡ.
Xin đa tạ và bái phục.
Đồng
đô la hiện thời rất có giá, nên khi cầm đô la về nước, những việt kiều không
phải chỉ giúp đỡ cho thân nhân của mình, mà hơn thế nữa, chính bản thân họ cũng
được nhiều lợi ích.
Thực
vậy, giá cả sinh hoạt ở Việt Nam tương đối rẻ, nên tha hồ tiêu xài rủng rỉnh.
Có những việt kiều đã về nước để sửa lại sắc đẹp, để may sắm áo quần…Có những
việt kiều đã về nước để cưới vợ, để hưu dưỡng và không chừng để chết trên vùng
đất thân yêu. Vì tất cả đều rẻ hơn so với bên đó.
Đồng
tiền thì có mặt phải mặt trái. Hôm nay gã đã bàn đến những đồng đô la nhân
nghĩa. Còn những đồng đô la bất hạnh thì sao ? Gã xin hẹn gặp lại ở lần
sau sẽ phân giải.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét