Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Trong bức thư mới nhất đề ngày 15 tháng 11 năm 1999, cụ chủ
nhiệm báo Mục vụ đã than thở cả tiếng “mí” gã như sau :
“Ở Thụy sĩ cũng như ở các nước Âu
Mỹ nói chung, các đấng ông chồng mày râu thường về Việt Nam chim chuột…lang chạ
hay kiếm đại bà vợ bé nào đó để dành, lâu lâu vừa trở lại thăm quê hương, vừa
đi nghỉ hè, lại vừa có sẵn của xài mà vợ con không mấy khi hay biết. Vì nếu
biết, thì gia đình sẽ đi đến chỗ xào xáo và tan vỡ từng mảnh. Chỉ tội nghiệp
cho những đứa con vì không còn thấy được cảnh đầm ấm nữa. Các bà thì một số đi
làm có tiền, ra ngoài xã hội cũng đua đòi, đi đến chỗ bình quyền, rồi lộng
quyền. Kết cục cũng lại là đổ vỡ. Vợ chồng mỗi người một nhà. Những đứa con có
hai nhà mà vẫn không có được một mái ấm trong đời…
“Riêng về giới trẻ, thì tình yêu
ngày càng xuống dốc một cách thậm tệ. Họ thường hay “thử ngòi” trước khi đi tới
kết hôn, coi nhẹ việc trinh trong của người thanh niên nam nữ…
Chẳng hiểu lời than thở trên đây có
bi quan lắm không, nhưng chắc hẳn cũng không đến nỗi phóng đại tô màu, đã đen
lại bôi thêm cho đen hơn.
Thực vậy, ai cũng biết rằng gia
đình hiện nay trên thế giới đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Dĩ
nhiên, các gia đình Việt Nam ở trong nước và nhất là ngoài nước, cũng không
thoát khỏi bị cuốn theo chiều gió, bị hút vào giòng chảy, mà nảy ra những
chuyện lỉnh kỉnh thế này hay thế nọ.
Riêng gã, với cái nhìn méo mó nghề
nghiệp, thì đây quả là một mảng đề tài thật phong phú để khai thác. Vì thế, mỗi
khi bị chiếu bí, gã bèn tìm về vùng đất này để mà…tán hươu tán vượn cho đầy
trang giấy. Hôm nay gã xin phác họa đôi ba nét về dung nhan…hết xảy của các bà
vợ.
Tiếng Việt Nam của chúng ta thật là
tuyệt vời để diễn đạt những “gam”, những mức độ tình cảm đậm nhạt khác nhau.
Khi mới bắt đầu thương, anh chàng
luôn mồm gọi chị chàng với cặp môi dẻo quẹo:
- Em yêu dấu… Người yêu bé... Con
mèo nhỏ…
Khi bước vào cuộc sống lứa đôi và
tình yêu còn nồng như rượu nếp mới và còn thơm như mật ong rừng, thì anh chồng
luôn trìu mến gọi chị vợ với giọng nói ngọt như đường cát, mát như đường phèn :
- Em…Mình…Cưng…Mẹ thằng cu…Đằng ấy…
Rồi hùng hổ giới thiệu vị
“nội tướng” của mình với bà con lối xóm bằng những danh từ thật bùi tai, còn
hơn cả đậu phộng rang, chẳng hạn như :
- Nhà tôi…Bà xã…
Nếu là dân ghiền cải lương, thì anh
chồng không ngần ngại ca sáu câu vọng cổ có mùi bắt đầu bằng những chữ :
- Hiền thê ơi…Ái khanh lòng ta hỡi.
Nhưng khi tình yêu đã bị xuống cấp,
nhất là trong những lúc nóng nảy, thượng cẳng chân hạ cẳng tay mí nhau, thì anh
chồng không ngần ngại tuôn ra những lời “hàng tôm hàng cá” để mà phang chị vợ
một trận tơi bời hoa lá cành :
- Cái con mẹ mày…Cái con mụ kia…Cái
bà chằng lửa…
Từ những kinh nghiệm đời thường ấy
mà có kẻ đã hung hăng phát biểu :
- Trong đời anh đờn ông có hai ngày
vui. Ngày vui thứ nhất đó là ngày lấy vợ. Còn ngày vui thứ hai đó là ngày
vợ…chết.
Chuyện kể rằng :
Có một anh đờn ông chẳng may qua
đời, mon men đến cửa thiên đàng. Ông thánh Phêrô thấy vậy bèn chặn lại và lên
tiếng hỏi :
- Ngươi đã làm được những gì để
xứng đáng bước vào chốn hạnh phúc muôn đời.
Anh đờn ông gãi đầu gãi tai. Xem ra
trong cuộc nơi sống trần gian anh ta đã chẳng làm được việc gì cho ra ngô ra
khoai, cho nên trò nên trống, cho nên cơm nên cháo. Sau một hồi suy nghĩ và xét
mình, cuối cùng anh ta mới rụt rè thưa lên :
- Bẩm thánh cả, con có vợ ạ.
Ông thánh Phêrô bèn đưa bàn tay
vuốt chòm râu bạc, rồi gật đầu ra dáng thông cảm :
- Thôi được. Ta rất hiểu ngươi.
Nào, ngươi hãy lẹ lẹ bước vào thiên đàng ngay đi.
Qua câu trả lời trên, có lẽ ông
thánh Phêrô đã nhìn thấy rất rõ những khó khăn, những gánh nặng và những bế tắc
của những anh đờn ông có vợ. Biết đâu chừng đó cũng chính là những khó khăn,
những gánh nặng, những bế tắc của bản thân ông thánh khi nhìn về dĩ vãng xa xưa
của mình.
Còn gã, gã cũng xin ăn theo mà chia
sẻ và mổ xẻ cái nỗi buồn của những anh đờn ông có vợ.
Người Việt Nam hiện nay thường được
nghe đến độ mòn cả lỗ tai và thuộc lòng câu nói sau đây :
- Không có gì quí hơn độc lập và tự
do.
Khi còn là “giai tơ”, anh đờn ông
lúc nào cũng có được cái kho tàng quí giá ấy là sự tự do. Anh ta muốn đi đâu
thì đi, muốn làm gì thì làm, muốn nhậu lúc nào thì nhậu. Thế nhưng khi đã đèo
bồng cái “rờ mọc”, thì liền mất toi cái kho tàng ấy, vì phải đổi thời và thoát
xác.
Có những anh chàng thưở trước thuộc
hạng “phá gia chi tử”, đã quậy thì phải quậy tới bờ tới bến, đã nhậu thì phải
nhậu cho xỉn vì không xỉn không về, đã chơi thì phải chơi xả láng để sáng còn
về sớm, thế mà khi lập gia đình thì bỗng trở nên nghiêm túc, chí thú làm ăn, có
lẽ vì nghĩ tới trách nhiệm của mình ở phía trước.
Bởi đó, khi đứng trước những “con
ngựa chứng” của hàng “giai tơ”, nhiều cụ đã khuyên :
- Cứ lấy vợ cho nó là xong tuốt
luốt…Chỉ có con vợ mới trị được nó mà thôi.
Và thế là nỗi buồn cứ len lén đi
vào tâm can tì phế, ám vào lục phủ ngũ tạng của anh đờn ông, hay như một bài
hát đã diễn tả :
- Buồn vào hồn không tên…
Để rồi anh đờn ông cứ thở dài thườn
thượt mà rằng :
- Ôi, thời oanh liệt nay còn đâu.
Chính vì vậy, các cụ ta ngày xưa
cũng đã phát biểu :
- Một là vợ, hai là…nợ.
Hay :
- Trai có vợ như dợ buộc chân.
Còn người Pháp, vốn mang giòng máu
“ga lăng” thì đã diễn tả một cách hoa hòe hoa sói hơn :
- Nếu em là trại giam, thì anh sẽ
là thằng tù.
Thế mà cũng có lúc đã phải chua
chát :
- Đờn bà vừa là niềm vui lại vừa là
tai họa cho đờn ông.
- Đờn bà vừa là nữ thần lại vừa là
sói cái của đờn ông.
Có những người nhờ vợ mà nổi đình
nổi đám, nên cơ đồ nên sự nghiệp :
- Giàu vì bạn sang vì vợ.
Nhưng cũng có những người vì vợ mà
tiêu tán đường, mất cả chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi. Vì thế người xưa đã
cho rằng :
- Thứ nhất vợ dại trong nhà,
Thứ hai nhà dột, thứ ba rựa
cùn.
Sống trên đời, anh đờn ông con giai
nào cũng cảm thấy có ba cái bực. Thế nhưng, cái bực vào hạng nhất đó chính là
vợ dại, bởi vì nhà dột thì hắn có thể lợp lại, rựa cùn thì hắn có thể mài lại,
hay bỏ một nơi, quẳng một xó…chứ còn vợ dại thì vẫn cứ phải chấp nhận, vẫn cứ
phải sống chung hòa bình, vẫn cứ phải đeo đẳng bên mình có khi còn dài hơn cả
một đời, bởi vì đờn ông thường “ngỏm củ tỉ” trước đờn bà, và tuổi thọ của anh
chồng thường vắn hơn chị vợ.
Vậy đâu là những cái nơi chị vợ
thường làm cho anh chồng phải bực, phải tức như bị bò đá mà vẫn cứ phải cắn
răng chịu vậy ?
Nếu bới lông tìm vết, sợi tóc chẻ
làm mười, thì hẳn sẽ tìm thấy nhiều tính mê nết xấu nơi đờn bà con gái. Và nếu
viết hết về những thói hư ấy thì chắc chắn gã sẽ bị lây cái thói “rậm nhời” tức
là thói nói nhiều của “phe mình”. Vì vậy, phe ta chỉ xin đề cập qua quít một
vài chuyện lỉnh kỉnh của phe mình mà thôi.
Trước hết đó là chuyện nói năng.
Tìm được một chị vợ vừa niềm nở
tươi tắn lại vừa kín miệng trong lời nói qủa là một sự khó, bởi vì nói dài, nói
dẻo, nói dai, nói day, nói dứt, nói gian, nói dối…vốn là nghề của các nường.
Có những chị vợ thường xuyên càu
nhàu với anh chồng. Chúng ta thử tưởng tượng xem một anh chồng làm công chức. Ở
sở thì bị bề trên trù dập, bề ngang ganh tị và bề dưới bướng bỉnh.
Về tới nhà những ước mong được nhìn
thấy khuôn mặt dễ thương với những lời nói êm dịu của chị vợ, rồi được nghe
thấy những tiếng cười trong trẻo đầy vô tư của con cái, để quên đi những mệt
mỏi, những buồn tủi và tìm lấy niềm phấn khởi để tiếp tục cuộc dành dựt chén
cơm manh áo.
Thế mà cái mong ước thật nhỏ nhoi,
thật tầm thường này cũng chẳng có được. Bởi vì hễ thò mặt vào nhà là y như rằng
chị vợ bèn càu nhàu :
- Sao anh thua người ta thế này,
sao anh thua người ta thế nọ…người ta kiếm tiền như nước, đem về cho vợ cho
con…Còn anh thì lại vô tài bất tướng…Thật khốn nạn cho cái thân tôi…Không hiểu
kiếp trước tôi vụng dại thế nào, mà kiếp này lỡ vớ phải một chàng cù lần cù lèo
như anh…
Ngay cả những lúc thân mật nhất,
chị vợ cũng vẫn sẵn sàng rót vào tai anh chồng những lời nói chua như chanh và
cay như ớt hiểm. Ngồi vào bàn ăn mà mặt mày cứ sụ xuống như bánh bao chiều hay
lầm lầm lì lì làm thành một đống. Trong tình huống như vậy, làm sao anh chồng
có thể chịu đựng cho thấu.
Nhất là mỗi khi có chuyện bất đồng
hay có điều chi xích mích, mà sự sai lỗi lại nằm trên phần đất của anh chồng,
thì chị vợ liền xả ga, nói cho bằng thích : nói xiên nói xẹo, nói xỉa nói
xóc…Lải nhải ngày cũng như đêm, bất cứ lúc nào chị vợ cũng như làu bàu trong
miệng một điều gì ấm ức và bực bội.
Tới nước này, thì anh chồng chỉ có
hai cách giải quyết : một là yên lặng bỏ nhà ra đi dăm bảy tiếng đồng hồ hay
đôi ba ngày, hai là tức nước vỡ bờ, liền nổi máu yêng hùng thượng cẳng chân hạ
cẳng tay, cho “cái con mẹ mày một trận” để mà câm miệng lại. Cả hai cách thức
giải quyết trên đều bất lợi cho cá nhân và gia đình.
Cũng xin nói thêm tí chút về độc
chiêu đấu tranh của đờn bà con gái, nhất là của các chị vợ.
Mỗi khi có một yêu cầu nào đó mà
xem ra anh chồng còn chần chừ, lừ khừ không muốn dứt điểm và xem ra như muốn
ngâm kíu thêm, rồi ngâm tôm luôn…thì chị vợ thường hay tranh đấu bằng hai
phương thế sau đây :
Phương thế tranh đấu thứ nhất là
vật mình vật mẩy rồi nhỏ ra dăm ba giọt nước mắt. Về cái khoản muớc mắt thì xem
ra phe mình không bao giờ thiếu. Nếu gã là tay “thợ thơ” thì chắc chắn sẽ phệu
ra được một bài ca tụng đôi mắt em là như một hồ chứa đầy nước, có thể tuôn
chảy bất kỳ lúc nào.
Gã đã từng chứng kiến cảnh hai bà
đang ngồi tỉ tê với nhau và trong câu chuyện, một bà nhắc tới chị bạn vừa mới
qua đời, thế là cả hai bà cùng mếu máo, bưng mặt khóc rưng rức.
Ở một đám tang, mấy bà con dâu ngồi
canh xác mẹ chồng, đang chuyện trò vui như tết, bỗng ngoài sân có tiếng chó sủa
và mấy người khách bước vào, thế là anh lê hấp, lập tức mấy bà con dâu liền tru
trếu, nghẹn ngào nấc lên từng cơn mà thương tiếc cho công đức của mẹ
chồng.
Nếu chẳng may hồ vị bể đập, nước đổ
xuống gây nên cơn lũ, cuốn phăng đi mọi sự. Cũng vậy, một khi nước mắt chị vợ
đã vãi ra, thì cũng sẽ làm tan béng mất cái dũng khí đờn ông, khiến cho
anh chồng hóa nên mềm nhũn như con chi chi. Bảo cái gì cũng ừ. Nói cái gì cũng
gật. Bởi vì chỉ còn là :
- Chìu thôi…chìu thôi.
Suy gẫm về những giọt nước mắt của
đờn bà con gái, người La mã thời xưa đã phải ngán ngẩm mà thốt lên rằng :
- Nước mắt của đờn bà thường ẩn
chứa những âm mưu toan tính.
Còn dân Ăng lê thì bảo :
- Trên đời này không có gì mau khô
cho bằng nước mắt đờn bà.
- Mưa ban sáng và nước mắt đờn bà
thì chẳng mấy chốc mà ráo.
Phương thế thứ hai đó là áp dụng
chiến thật bất bạo động, bất hợp của ngài Gandhi. Không phải chỉ tam không, mà
còn tới thất bát cửu không ấy chứ.
Này nhé, không nói không rằng,
không cười không hỏi, không làm không lụng…thậm chí cả đến lúc leo lên giường
cũng không thèm quay mặt ra, mà chỉ “tôi nhìn tôi trên vách”. Đến cái nước này
thì thử hỏi bố anh chồng nào chịu nổi.
Có một chị vợ kia đã hiên ngang và
anh dũng tuyên bố với anh chồng của mình như sau :
- Liệu anh có thể chịu đựng nổi sự
lạnh lùng của tôi không đấy hử ?
Và thế là anh chồng bèn phải xuống
ngựa làm một màn năn nỉ ỉ ôi, suýt gẫy cả lưỡi, để rồi yêu sách nào cũng giải
quyết, đòi hỏi nào cũng thỏa mãn. Và anh chồng ấy đã vuốt chòm râu lún phún và
nhủ thầm :
- Mình nhịn vợ mình chứ có nhịn vợ
thiên hạ đâu mà sợ.
Tiếp đến là chuyện tiền nong và chi
tiêu. Chúng ta thường bảo :
- Có thực mới vực được đạo.
Tiền bạc tuy là của phù vân giả
trá, nhưng lại rất cần thiết để bảo đảm cho một cuộc sống được ấm no và hạnh
phúc.
Hơn thế nữa, người xưa cũng thường
bảo :
- Lấy vàng nhử đờn bà, lấy đờn bà
nhử đờn ông và lấy đờn ông để làm ra vàng.
Phần đông đờn bà con gái đều thích
vàng, thích hột soàn…nói chung là thích tiền :
- Có ăn thiếp ở cùng chàng,
Không ăn thiếp tếch, cơ hàn
thiếp lui.
- Ví dầu tình có dở dang,
Thì cho thiếp gọi đò ngang
thiếp về.
Theo gã nghĩ :
- Tiền bạc là do công lao vất vả,
mồ hôi nước mắt của mọi người, nên nó phải được tiêu dùng chung, nhằm bảo đảm
những tiện nghi tối thiểu, chứ không được phép tiêu xài hoang phí cho riêng
mình.
Trong hầu hết các gia đình, thì chị
vợ thường được trao cho chân thủ quĩ để quản lý tiền bạc chi tiêu. Đang lúc anh
chồng lo quần quật làm lụng đem tiền về cho gia đình, thì chị vợ sẽ lo quán
xuyến, nên phải biết chi tiêu cho hợp tình và hợp lý. Với chức vụ thủ quĩ và
quản lý, các chị vợ thường mắc phải hai thái cực sau đây.
Thái cực thứ nhất đó là quá hà tiện
và keo kiệt, mặc dù không đến độ vắt cù chày ra nước, rán sành ra mỡ, đãi cứt
sáo lấy hạt đa, đãi cứt gà mót hạt tấm, nhưng rất sẻn so trong việc chi tiêu,
ngay cả những chi tiêu chính đáng, chẳng hạn như không dám mua thức ăn, nên chi
bữa nào cũng chỉ là cà ghém mắm tôm và canh cua rau đay…rồi thì lại canh cua
rau đay, mắm tôm và cà ghém…
Thái cực thứ hai đó là quá hoang
phí, theo kiểu con nhà lính tính nhà quan, bóc ngắn cắn dài, nghèo mà lại thích
xài sang. Lương tháng anh chồng ba cọc ba đồng, thế mà chị vợ ở nhà lại vung
tay quá trán, nên suốt đời mang công mắc nợ. Từ chỗ thiếu hụt, chẳng bao lâu sẽ
dẫn tới chỗ xào xáo lẫn nhau và gia đình cũng…đi đoong luôn.
Trước hết là hoang phí cho việc may
mặc.
Nay bộ này, mai bộ khác. Hôm thì
uốn cái đầu, hôm thì mua cái bóp, ấy là chưa kể tới son phấn cùng muôn vàn sự
lỉnh kỉnh khác nữa. Ở nhà lắm lúc hạt cơm không có để mà bỏ vào bụng, những ra
đường thì cứ như bà hoàng bà chúa.
Dĩ nhiên gã không chối cãi : đờn bà
con gái cần phải làm đẹp vì làm đẹp cũng là một phương thế, một nghệ thuật để
giữ lấy anh chồng và làm cho gia đình được ấm cúng.
Gã thấy có những chị vợ khi đã được
một hai nhóc tì là bắt đầu cẩu thả trong việc ăn mặc. Cứ thử tưởng tượng xem
anh chồng đi làm mệt nhoài, về tới nhà thì liền nhìn thấy chị vợ lem luốc, đầu
bù tóc rối, còn con cái thì bẩn thỉu, thò lò mũi xanh…Rất có thể chỉ vì sự cẩu
thả này, mà anh chồng đi tìm những an ủi, thoải mái nơi người khác sạch sẽ,
tươm tấp và thơm tho hơn.
Tuy nhiên, làm đẹp không có nghĩa
là làm đỏm, xa xỉ và chạy theo thời trang. Nghệ thuật làm đẹp mà chị vợ cần
phải nắm chắc và thực hiện, đó là đói cho sạch, rách cho thơm.
Thứ đến là hoang phí cho việc ăn
uống.
Nếu mua để cho mọi người cùng xài
thì không sao, nhưng mua để cho mình xài riêng lại là chuyện khác. Một trong
những thói quen, đôi khi cũng hơi dễ thương một tí, mà đờn bà con gái thường
thích mắc phải đó là cái thói ăn hàng, xơi quà vặt. Có những cô nường, nhất là
phe nữ sinh kẹp tóc, đã hăng tiết vịt mà phát ngôn :
- Là con gái mà không ăn quà vặt
thì không phải là con gái nữa. Đi chợ mà không ghé hàng quà, thì dân buôn bán
sẽ chết hết.
Tục ngữ ca dao cũng đã tốn khá
nhiều lời để diễn tả về thói tục này như sau :
- Đi chợ,
Đồng bấc thì quên, đồng quà
thì nhớ.
Có những chị vợ đã được liệt vào
hàng “top ten” siêu đẳng :
- Đi chợ ăn quà, về nhà đánh con.
Rồi đưa ra lý do để biện mình cho
hành động của mình :
- Đi chợ mất tám tiền quà,
Chồng thương, chồng bảo về
nhà đỡ cơm.
Được nắm hào bào, được quản lý cái
ruột tượng, tức là tiền bạc trong gia đình, nên các chị vợ ấy rất lấy làm yên
chí nhớn mà rằng :
- Đêm nằm thì ngáy o o,
Chửa ra đến chợ đã lo ăn
quà,
Hàng bánh, hàng bún bày ra,
Củ từ khoai nướng lẫn hàng
cháo kê,
Ăn rồi lại rủ ra về,
Thấy hàng chả nướng lại lê
trôn vào,
Chả này bà bán làm sao,
Ba đồng một mớ lẽ nào chẳng
xơi…
Có chị vợ không thèm ăn quà vặt, mà
lợi dụng mỗi khi chồng vắng là mẹ mẹ con con xúm xít bày tiệc tùng bánh trái để
xơi cho khoái khầu, cũng như để tập tành nữ công gia chánh con gái.
Sau cùng là hoang phí cho bài bạc,
đỏ đen.
Trong khi các anh chồng tới nhà máy
hay công sở, thì các chị vợ ở nhà, tụm năm tụm ba, dở bài cào tứ sắc, hay số đề
số đuôi…Thua thì nhiều, mà được chẳng bao nhiêu. Nếu có được thì cũng đãi đằng.
Tiền chưa kịp nóng tay, thì đã vội bay hơi lúc nào không biết.
Những hoang phí trong việc chi tiêu
như thế, chắc chắn sẽ tạo nên một lỗ hổng, mà anh chồng, suốt đời làm thân trâu
ngựa, cũng không thể lấp đầy cho nổi.
Trong phạm vi tiền bạc cũng còn có
một sự lợm cợm khác nữa. Đó là hiện nay vì hoàn cảnh đổi thay, tại nhiều gia
đình, ở Việt Nam và nhất là ở phương tây, chị vợ cũng phải chen chân ra ngoài
xã hội, kiếm thêm phần thu nhập, từ đó phát sinh ra những tình huống dở cười dở
khóc.
Nếu chị vợ gặt hái được những thành
công, tiền lương có phần trội hơn anh chồng, thì phần thắng sẽ thuộc về người
nắm được nguồn kinh tế và tài chánh. Và nếu chẳng may, anh chồng lâm vào cảnh
thất nghiệp thì bèn phải cúi đầu xuống như muông chim và trật tự
trong gia đình sẽ bị đảo lộn :
- Làm trai rửa bát quét nhà,
Vợ gọi thì dạ, bẩm bà em
đây.
Còn nếu như thu nhập đồng đều, thì
tiền ai người ấy tiêu. Anh chồng có một tài khoản trong ngân hàng và chị vợ
cũng có một tài khoản khác. Có được tài khoản trong tay, chị vợ bèn ngước mặt
lên, quắc mắt nhìn đời, cảm thấy như mình được giải phóng và bình đẳng với anh
chồng vì không còn bị lệ thuộc vào kinh tế và tài chánh nữa.
Từ chỗ bình quyền, chị vợ chỉ cần
nhảy thêm một tí nữa là sẽ tót ngay lên chỗ lộng quyền cái một. Chỉ tội nghiệp
cho con cái khi cần tiền, chẳng biết ngửa tay xin ai.
Anh chồng hì hục kéo cày và chị vợ
cũng hì hục kéo cày. Con cái không còn được chăm sóc. Gia đình biến thành quán
trọ. Gặp nhau thoáng chốc rồi đường ai người ấy đi, việc ai người ấy làm. Thậm
chí như cụ chủ nhiệm đã nhận xét :
- Ông một nhà, bà một nhà, con cái
có hai nhà những lại chẳng có được một mái ấm yêu thương.
Nếu cứ tố khổ như thế, thì không
biết tán đến bao giờ mới hết. Nhưng bằng đó mà thôi cũng đã đủ khiến cho quí bà
quí cô nổi máu tam bành. Thôi thì lần khác gã sẽ phải làm việc đền tội mà tố
khổ phe ta, phe đờn ông con giai, nhất là những đấng làm chồng.
Để kết luận, gã xin ghi lại một bài
thơ vui mà gã đã thuổng được ở một tờ báo. Bài thơ mang tựa đề là : Vợ.
- Vợ là tình cảm sâu xa,
Vợ là gió mát, vợ là bão
giông.
Vợ như một đóa hoa hồng,
Vợ là sư tử Hà đông kinh
người.
Vợ là êm ái tuyệt vời,
Vợ là bão táp rụng rời chân
tay.
Vợ là một chất men say,
Vợ là cái đắng cái cay trong
lòng.
Có người nhờ vợ nên ông,
Nhiều người vì vợ mất không cơ đồ….
Rồi tác giả bài thơ đã kết luận :
- Tốt số lấy được vợ hiền,
Vô duyên vớ phải bà điên, bà
khùng.
Đọc xong bài thơ trên, gã cảm thấy
như còn đọng lại trong miệng một vị đăng đắng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét